Sao Việt đồng loạt sốc, tiếc thương trước sự ra đi đột ngột của siêu mẫu, diễn viên Đức Tiến ở tuổi 44.
Xem tiếp...
Phác thảo Nghệ Thuật Hát Hồ Quảng (1) - SG Nguyễn Phương
CLVNCOM - Ngày 20 tháng 9 năm 2014, nhân dự tiệc cuối hạ của Hội Rồng Vàng Tuổi Vàng Montréal, tôi gặp lại các văn hữu thân thương. Anh Lâm Văn Bé, nguyên Giám Đốc Sở Văn Hóa và Thư Viện Phố thị Côte-des-neiges / Notre-Dame-de-Grace, Thành phố Montréal, Canada hỏi tôi: “Trước đây sau khi xuất bản cuốn Ngũ Đại Gia của sân khấu cải lương và cuốn Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ, Nguyễn Phương dự tính viết cuốn Nghệ Thuật Hát Hồ Quảng. Đến nay công việc đi tới đâu rồi?”
Tôi kể cho anh nghe việc tôi sưu tầm tài liệu liên quan đến nghệ thuật
hát Hồ Quảng. Tôi đã về VN, nhiều lần gặp các nghệ sĩ chuyên hát cải
lương tuồng cổ và Hồ Quảng: Thanh Tòng, Xuân Yến, Thanh Thế, Minh Long,
nhạc sĩ cổ nhạc và nhạc Hồ Quảng Thanh Dũng để bàn luận, tìm tài liệu,
thu nhạc và sưu tầm tuồng Hồ Quảng. Tôi cũng đã đi Hoa Kỳ gặp nữ nghệ sĩ
Hồ Quảng Phượng Mai, đã sang Pháp bàn luận và thu thập tài liệu với các
nghệ sĩ tài danh về Hồ Quảng: Thanh Bạch, Bạch Lê, Minh Tâm, Tài Lương,
Minh Đức, Kiều Lệ Mai, Hà Mỹ Xuân … Tôi đến gặp nghệ sĩ và nhà biên
khảo về Hát Bội Đinh Bằng Phi để tham khảo ý kiến của anh. Ngoài ra tôi
đọc lại và trích ra trong các sổ tay của tôi từ năm 1955 đến năm 1972,
những ghi chú, bút ký, tài liệu sưu tầm về cải lương tuồng Tàu hát theo
lối Quảng, cải lương tuồng Tàu, cải lương dã sử, cải lương tuồng xã hội
và cải lương Hồ Quảng. Nếu hệ thống hóa các tài liệu mới và cũ của tôi
sưu tầm liên quan đến cải lương Hồ Quảng thì tôi có thể viết một phác
thảo về nghệ thuật hát Hồ Quảng.
“Tôi hy vọng bản phác thảo nghệ
thuật hát Hồ Quảng này sẽ là tài liệu sơ khởi để các bạn chuyên môn
nghiên cứu lý luận về nghệ thuật và các nghệ sĩ hát Hồ Quảng chuyên
nghiệp sẽ sửa chữa hoặc góp ý bổ túc để chúng ta có một tài liệu đầy đủ
về nghệ thuật hát cải lương Hồ Quảng.”
Anh Lê Văn Châu hội viên
Văn Bút Montréal và cũng là phó hội trưởng Hội Tuổi Vàng Rồng Vàng
khuyến khích tôi, anh nói: “Vậy thì tôi đề nghị Nguyễn Phương nên bắt
tay ngay vào việc viết quyển sách Nghệ Thuật Hát Hồ Quảng đi. Anh năm
nay đã 93 tuổi rồi, anh phải viết liên tục trong 6 tháng hay hơn nữa để
hoàn thành cuốn sách đó. Anh cần viết phác thảo, ghi những dòng lớn,
plan của cuốn sách, bao nhiêu chương, những vấn đề nào liên quan tới
nghệ thuật, âm nhạc và kỷ thuật hát Hồ Quảng. Sau đó anh sẽ viết chi
tiết, thêm hoa lá cành. Nếu chần chờ để lâu, tôi e anh không còn nhiều
thời gian, nhất là tuổi của anh đã quá chín chục rồi, trí nhớ cũng mòn
đi ít nhiều. Viết … viết liền đi … Đừng chờ tới cái lúc mà anh em mình
gặp nhau, anh ngó tôi rồi không nhớ tên tôi, không nhớ tôi là ai … và
hõng chừng anh cũng sẽ quên không nhớ Nguyễn Phương là cái ông nào nữa…
Tiệc
Cuối Hạ Đầu Thu của Hội Tuổi Vàng Rồng Vàng nhiều món ăn rất ngon, tôi
nghe ông Lê Văn Châu nhắc chuyện người già hay lú lẩn, cái bịnh
Alzheimer’s, bệnh mất trí nhớ phổ biến của người già không chừa một ai …
ca sĩ Thái Thanh, người có giọng hát vượt thời gian nhưng không vượt
nỗi cái bịnh quái ác Alzheimer’s, tôi cũng phát lo mà ăn tiệc nuốt hết
vô.
Về đến nhà là tôi bắt đầu động não, suy nghĩ xem sẽ viết gì
đây? Khởi đầu cuốn sách Nghệ Thuật Hát Hồ Quảng như thế nào? Kiểm điểm
lại các tài liệu của tôi có, viết về nghệ thuật sân khấu, tôi thấy là ở
Việt Nam và cả ở nước ngoài, từ xưa đến nay, chưa có một tác giả nào,
nghệ sĩ nào viết lý luận hoặc tổng kết về nghệ thuật hát Hồ Quảng!
Về
nghệ thuật Hát Bội, lúc còn ở Việt Nam, tôi có đọc cuốn Le Théâtre
Annamite Classique (nghệ thuật sân khấu cổ điển Annam) của Tiến Sĩ
Georges Coulet, nhà xuất bản Mouton, in năm 1928 ở Toulon Pháp.
Tôi
cũng có tham khảo hai cuốn sách khác viết về Hát Bội của ông Tuần Lý
Huỳnh Khắc Dụng do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1970 (Théâtre
Traditionnel du Việt Nam) và chương viết về Hát Bội trong quyển Nghệ
Thuật Sân Khấu Việt Nam của ông Thanh Trung Trần Văn Khải, nhà sách Khai
Trí xuất bản năm 1970 tại Saigon.
Tôi có sưu tầm các tuồng hát
bội của tác giả Đào Tấn (tuồng Hộ Sinh Đàn, Trầm Hương Các) tuồng hát
bội sưu tầm của tác giả Hoàng Châu Ký (Tuồng San Hậu, Tam Nữ Đồ Vương,
Tân Dã Đồn, trích đoạn tuồng Tam Quốc và trích đoạn tuồng Tây Du). Ba
tuồng Đào Mai tương ngộ, Tiếng hát nàng Huyền Cơ, Chất ngọc không tan
của hai tác giả Trương Huyền và Đinh Bằng Phi.
Ngoài ra còn có cuốn
Từ Điển về Nghệ Thuật Hát Bội của Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội
năm 1998, tài liệu về Hóa Trang Mặt Nạ trong Sân Khấu Hát Bội (The Art
of Mask Making-Up in Hát Bội), quyển Viet Nam Hat Boi Theatre Art trình
bày đầy đủ hình ảnh, màu sắc của các loại Áo, Mão, Giày, Đạo cụ cho các
nhân vật Vua, Hoàng Hậu, Công Chúa, Trạng nguyên, quan văn, võ tướng,
thư sinh … Nhạc khí dùng trong sân khấu Hát Bội.
Về nghệ thuật
sân khấu cải lương và kịch có cuốn Nghệ Thuật Sân Khấu Việt Nam của tác
giả Thanh Trung Trần Văn Khải, Hồi ký 50 năm mê Hát của Vương Hồng Sển,
xuất bản năm 1968.
Về cổ nhạc có quyển 20 bài bản Tổ và 100 bài
bản nhỏ dùng trong sân khấu cải lương của nhạc sĩ Năm Hưng (có các nhạc
sĩ Hai Khuê, Út Trong, Ba Thu tham khảo và góp ý) quyển Cầm ca cổ nhạc
của nhạc sĩ Trịnh Thiên Tư, cuốn Tìm hiểu Âm Nhạc Cải Lương của nhạc sĩ
Đắc Nhẩn, cuốn Nhạc Tài Tử Nhạc Sân Khấu Cải Lương của nhạc sĩ Trương
Bỉnh Tòng, cuốn Nhạc Khí Dân Tộc Việt của Võ Thanh Tùng nhà xuất bản Âm
Nhạc 2001, cuốn La musique traditionnelle du Việt Nam của Giáo sư Tiến
sĩ Trần Văn Khê.
Như đã kể từ năm 1910, năm mà các nghệ sĩ cổ
nhạc hợp lại chơi đàn ca cổ nhạc, làm thành ra lối “Ca Ra Bộ” rồi “Đàn
Ca Tài Tử” đến năm 1917 là năm khai sáng “Nghệ Thuật Hát Cải Lương” cho
đến năm 1960, các soạn giả, nghệ sĩ cải lương, các ký giả kịch trường
trải qua 50 năm hành nghề, chưa có ai dùng đến từ:” cải lương Hồ Quảng
“.
Từ nửa thập niên 60, nghệ thuật hát cải lương Hồ Quảng mới
được sản sinh và ngày càng phát triển. Hiện nay trong thị trường băng
video và DVD cải lương ở trong nước và ở hải ngoại có rất nhiều băng và
dvd cải lương Hồ Quảng. Vấn đề nghiên cứu để đề ra một lý luận về nghệ
thuật hát Hồ Quảng là một việc rất cần thiết để góp phần phong phú cho
nghệ thuật sân khấu Việt Nam.
X X X
Nghệ thuật cải lương Hồ Quảng được khai sinh trong hoàn
cảnh nào, thời gian nào và được những nghệ sĩ, soạn giả, nhạc sĩ nào đã
góp công xây dựng nghệ thuật hát cải lương Hồ Quảng?
Tôi nghĩ là
một ngành nghệ thuật sân khấu được hình thành không phải do một hay vài
nghệ sĩ nào đó dựng ra và cũng không thể dứt khoát nói đúng ngày nào,
tháng nào khai sanh ra loại hình nghệ thuật đó mà phải hiểu rằng nó có
một quá trình lâu dài, bắt nguồn từ ngành nghệ thuật có cùng khuynh
hướng với nó. Phải qua một thời gian nhiều năm, nhiều nghệ sĩ cùng hoạt
động rồi dần dần loại hình nghệ thuật đó tự điều chỉnh, tự định hình và
phải có nhiều nghệ sĩ tài ba, đóng góp nhiều công lao sáng tạo mới có
thể khai sinh ra một loại hình nghệ thuật biểu diễn mới, được khán giả
và nghệ sĩ yêu thích và đặt cho nó một danh xưng: nghệ thuật cải lương
Hồ Quảng.
Để phân biệt một loại hình nghệ thuật sân khấu, người ta dựa vào hai yếu tố căn bản sau đây:
1/ - nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu.
2/ - bài ca, cách phát âm lời thoại trong tuồng.
Ví
dụ: Hát Bội thì động tác múa là dùng nghệ thuật tả ý, tượng trưng, hóa
trang nét mặt, màu sắc cũng dùng màu và nét vẽ tả ý theo tính cách của
nhân vật. Nhân vật mặt đỏ hay mặt trắng, râu dài là người có trung cang
nghĩa khí. Nhân vật vẻ mặt mốc râu rìa là gian thần, nịnh thần. Nhân
vật vẻ mặt đen tuyền hoặc đen có vằn trắng là người trung nhưng nóng
tánh … Nhạc hát bội dùng các bài ca Nam, Hát Khách, Tẩu Mã, Bạch, nhạc
dùng Bài Hạ, Xuân Nữ, bài Nam., bài đưa hơi Hát Khách … chỉ đờn đưa hơi
chớ không như cải lương, bài ca phải ca trúng với bản đờn …
Hát
cải lương thì bài ca là những bài cổ nhạc, vọng cổ, điệu hát nếu tuồng
xã hội thì động tác giống đời thường, nếu tuồng dã sử, lịch sử thì có
động tác giống như các nhân vật vua, quan, võ tướng trong tuồng sử của
hát bội như được giản lược.
Hát cải lương theo lối hát Quảng thì
bài ca là các điệu hát xuất xứ từ tuồng Tàu như các bài Phảnh Phá, Bạc
Cấm Lùng, Dì Phảnh, Xách Xủi, Xáng Xáng Lìu…động tác múa theo lối hát
Quảng. Ca những bản như Xang Xừ Líu, Tân Soái Phỉ thì có gỏ mõ hoặc kẻng
theo nhịp đàn và gõ nhiều tiếng thành một tràng dài cuối câu như kiểu
đờn theo câu ca ngân cuối câu … Dàn nhạc có thêm trống cái, chập chỏa,
đồng lố, kèn hầu củn, kèn lá, đàn gáo, mõ … Động tác hát tuồng Tàu theo
lối Quảng thì nhân vật hát, múa như loại Kinh Kịch của Tàu.
Nhạc Kịch thì kịch có nhiều bài tân nhạc dùng để diễn tả tình cảm hoặc đối đáp như Opéra của các nước Anh, Pháp.
Hát
Hồ Quảng thì nhạc là những bài nhạc tình cảm rút trong các phim tình sử
của Tàu như phim Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Thanh Xà Bạch Xà, Vạn Lý
Tầm Phu, Hồng Lâu Mộng … Động tác hát như lối hát tuồng Tàu.
Phần
ví dụ trên chỉ đưa ra những nét căn bản để dựa vào âm nhạc, phong cách
ca, diễn mà xác định loại hình nghệ thuật sân khấu. Đi vào chi tiết kỷ
thuật biểu diễn thì cần phải được giải thích và giới thiệu kỷ thuật rõ
ràng hơn, chi tiết hơn.
Xét qua tình hình hoạt động của các đoàn
hát cải lương, các đoàn hát bội pha cải lương, các đoàn hát Quảng, hát
Tiều và thị trường phim ảnh trong những năm đầu của thập niên 60 thì sẽ
thấy rõ trong hoàn cảnh nào, thời gian nào và nghệ sĩ nào là người đầu
tiên sáng tạo loại hình nghệ thuật hát cải lương Hồ Quảng.
Từ năm
1960 đến năm 1962, các đoàn hát cải lương ở Saigòn thu hút đông nghẹt
khán giả. Đó là những đại ban có nhiều soạn giả sáng tác nhiều tuồng
hay, có những diễn viên danh ca, thanh sắc lưỡng toàn. Đoàn Thanh Minh
Thanh Nga chuyên hát các tuồng dã sử Việt Nam và tuồng xã hội cận đại.
Đoàn Kim Chưởng hát các tuồng loại hương xa và kiếm hiệp Kim Dung. Đoàn
Kim Chung, đoàn Thống Nhứt – Út Trà Ôn, đoàn Hương Hoa Bầu Sinh hát
tuồng Thi Ca Vũ Nhạc Kịch, đặc biệt khai thác các bài ca tân cổ giao
duyên. Đoàn Phụng Hảo quy tụ tài danh hát Hội, gây quỷ cho Hội Nghệ Sĩ
Ái Hữu Tương Tế với các loại tuồng Tàu theo lối Quảng.
Đoàn
Khánh Hồng – Minh Tơ hát thường trực tại rạp Đình Cầu Quan kế bên rạp
hát Thanh Xương và đoàn Tấn Thành Ban ở đình Minh Phụng - Chợ Lớn, đoàn
Thanh Bình Kim Mai ở đình Cầu Muối hát bội pha cải lương bị các rạp hát
bóng gần bên tranh khán giả nên số doanh thu sa sút nghiêm trọng.
Các
rạp hát bóng thường trực thu hút đông đảo khán giả Việt Hoa qua loạt
phim Hồng Kông, Đài Loan: Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Phim Thanh Xà
Bạch Xà, Phim Vạn Lý Tầm Phu, Dương Gia Tướng … Phim được quay phõng
theo loại sân khấu Kinh Kịch Trung Hoa, được điện ảnh hóa, cốt truyện
trữ tình, có những điệu ca du dương tươi mát hạp với cảm quan của khán
giả Việt Nam. Thêm nữa, nhờ diễn xuất và nhan sác tuyệt đẹp của các đại
minh tinh Lý Lệ Hoa, Lâm Đại, Nghiêm Tuấn, La Duy, Lăng Ba, Lạc Đế … Các
phim Đài Loan hoàn toàn chinh phục khán giả Việt Nam. Ở Saigòn, Chợ
Lớn và Gia Định, các hãng phim Mỹ Ảnh, Tân Kiệt Y Oan, Mỹ Vân có 18 rạp
hát bóng chiếu các phim Đài Loan (Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Thanh Xà
Bạch Xà, Dương Gia Tướng, Vạn Lý Tầm Phu), lúc nào các rạp hát bóng đó
cũng đông nghẹt khán giả.
Năm 1962, nghệ sĩ kiêm nhạc sĩ Đức
Phú, em ruột của hai nghệ sĩ Minh Tơ, Khánh Hồng đi xem phim Lương Sơn
Bá – Chúc anh Đài. Anh ghi âm một số nhạc bản trong phim này, viết
thành tuồng cải lương, tựa đề Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, hát như lối
hát cải lương tuồng Tàu (Kinh Kịch), toàn bộ các bản nhạc trong tuồng
lấy nhạc phim Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, lời ca do Đức Phú sáng tác
theo ý tuồng cải lương LSB – CAĐ.
Thành phần nghệ sĩ tuồng Lương
Sơn Bá Chúc Anh Đài hát khai trương tại rạp Đình Cầu Quan( kế bên rạp
Thành Xương đường Yersin quận Nhứt.):
Vai 1/ Lương Sơn Bá do nhạc sĩ kiêm tác giả Đức Phú thủ diễn.
Vai 2/ Chúc Anh Đài do nữ nghệ sĩ Thanh Hoàng (sau này khi đi gánh Thủ
Đô, hát tuồng Tiếng Trống Sang Canh, Thanh Hoàng được đổi tên thành Bo
Bo Hoàng.)
3 / Tiểu đồng Tứ Cửu……………… ns Bữu Truyện
4 / Tiểu đồng Ngân Tâm…………… nns Xuân Yến
5 / Mã Văn Tài…………………………… ns Đức Lợi.
6 / Chúc Ông……………………………… ns Trường Sơn.
7 / Chúc Bà………………………………… nns Thanh Ngọc
8 / Sư mẫu………………………………… nns Thanh Loan.
Một hiện tượng sân khấu đặc biệt được báo chí kịch trường nhất loạt đưa
ra trong nhiều bài báo tường thuật tuồng, phê bình diễn xuất và đưa tin
thành công vượt bực của đoàn hát Khánh Hồng – Minh Tơ qua tuồng Lương
Sơn Bá – Chúc Anh Đài.
Soạn giả các đoàn hát cải lương đều đến
đoàn Khánh Hồng – Minh Tơ để xem tuồng LSB – Chúc Anh Đài, nghiên cứu để
biết vì sao tuồng đó ăn khách kỷ lục trong giai đoạn đó. Đoàn Khánh
Hồng Minh Tơ xưa nay hát mỗi đêm một tuồng. Tuồng luôn thay đổi mà chưa
có lần nào thu hút khán giả đông như tuồng LSB – CAĐ. Tuồng này được
đoàn Khánh Hồng – Minh Tơ diễn liên tục một tuần. Tuần sau diễn hai
suất mỗi tối. Tuần thứ ba cũng còn đông nghẹt khán giả.
Hai nhạc
sĩ Há Thầu và Á Long đoàn hát Huỳnh Long cũng ghi nhạc các tuồng trong
phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Thanh Xà Bạch Xà và đặt tên các nhạc
bản đó là Hoàng Mai. Hoàng Mai 1 cho đến Hoàng Mai 15 để dùng cho các
tuồng hát cải lương, nhạc Đài Loan.
Nhạc sĩ Đức Phú thì theo từng
cảnh, từng chuyện, phỏng theo phim mà đặt tên nhạc bản như bài Nam Sơn
Tiểu Lộ., Hoàng Mai Hoàn Ngọc, Ly Hận, Duyên Thủy Ngư Biệt Khúc để hai
diễn viên chánh ca đối đáp khi đố chim, đố ngổng…Mộng Bướm Hoa, Minh Tâm
Vọng Nguyệt, Ngưu Lang Chức Nữ trong cảnh hai vai chánh LSB – CAĐ chia
tay ở trường học và gặp lại khi tình dang dở vì Mã Văn Tài ép CAĐ phải
thành hôn với hắn.
Cũng với các bản nhạc này, nhạc sĩ Lê Văn
Thiện ghi âm cho hãng dĩa Capitol thu thanh tuồng Vạn Lý Trường Thành,
anh Lê Văn Thiện đặt tên các bản nhạc Đài Loan đó là bản 1 đến bản 16.
Tôi nghe anh Mến (người Trung Hoa, chủ hãng dĩa Capitol) gọi bản 16 là
bản Sơn Địa Tình Ta.
Nữ nghệ sĩ Hồ Quảng Phượng Mai thu thanh một dĩa ca nhạc Hồ Quảng LSB – CAĐ có ghi là bài Sa Trường xa quạnh vắng.
Tôi ghi tất cả những khác biệt về danh xưng các bài hát cùng rút trong
phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài để thấy mức độ ăn khách của các nhạc
bản đó và vì cùng ghi âm nhạc trong phim ra nên mạnh ai nấy đặt tên nhạc
bản và không nhạc sĩ nào có thể nói mình là người sáng tác ra bài nhạc
đó để đòi tiền bản quyền cho riêng mình.
Khi nhiều đoàn hát cùng hát
các tuồng cải lương có nhạc Đài Loan, lúc đầu báo chí kịch trường gọi là
Tuồng cải lương Nhạc Đài Loan. Về sau không biết coí ai đó gọi là Tuồng
Cải Lương nhạc Hồ Quảng., rồi rút ngắn lại thành Tuồng Hồ Quảng.
Hồ
Quảng đây không phải là tỉnh Hồ Nam và tỉnh Quảng Đông. Chúng tôi ghi
nhận là mấy chữ nhạc Hồ Quảng được nhiều người nói đến và mặc nhiên công
nhận đó là nhạc Đài Loan trong các phim Thanh Xà, Bạch Xà, Lương Sơn Bá
– Chúc Anh Đài và người trong giới cải lương tuồng cổ chấp nhận mấy
tiếng Nhạc Hô Quảng để chỉ là Nhạc Đài Loan trong các phim Tình Sử Tàu
đang ăn khách trong những năm 1962, 1963.
(còn tiếp)
Nguyễn Phương
Tác giả bài viết: SG Nguyễn Phương - CLVNCOM
Ý kiến bạn đọc