Sắp
tới
đây
là
kỷ
niệm
21
năm
ngày
thành
lập
trang
web
cailuongvietnam.com
(13/04/2004
-
13/04/2025)
Dây
là
trang
tin
tức
đầu
tiên
của
cailuongvietnam.com
từ
năm
2004.
Còn
đuọc
gọi
là
CLVNCOM1
.
Thân
mời
các
dộc
giả
xem
những
bằi
mới
hơn
tại
trang
tin
tưc
CLVNCOM2
theo
link
dưới
dây
https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Xem
tiếp...
Thanh
Sang:
Một
giọng
ca
“trời
sầu
đất
thảm”
Các
giọng
nam
ca
mùi
thì
có
rất
nhiều,
nhưng
giọng
thiên
phú
mà
khi
cất
lên
là
“trời
sầu
đất
thảm”
thì
có
lẽ
giọng
ca
Thanh
Sang
phải
được
xếp
hàng
số
một.
Bên
cạnh
giọng
ca
trời
cho,
Thanh
Sang
còn
để
đời
với
nhiều
vai
diễn
thuộc
hàng
kinh
điển
của
sân
khấu
cải
lương.
Trong
làng
cải
lương,
không
ai
không
biết
đến
nghệ
sĩ
Út
Bạch
Lan
với
giọng
ca
được
mệnh
danh
là
“Sầu
nữ".
Không
phải
những
giọng
ca
nữ
khác
không
u
buồn,
nhưng
nói
về
độ
mùi
mẫn
bi
ai
thì
rõ
ràng
không
ai
vượt
qua
được
Sầu
nữ
Út
Bạch
Lan.
Còn
nếu
nhìn
vào
các
giọng
ca
nam,
ca
mùi
thì
có
rất
nhiều,
nhưng
giọng
thiên
phú
mà
khi
cất
lên
là
“trời
sầu
đất
thảm”
thì
có
lẽ
giọng
ca
Thanh
Sang
phải
được
xếp
hàng
số
một.
Bên
cạnh
giọng
ca
trời
cho,
Thanh
Sang
còn
để
đời
với
nhiều
vai
diễn
thuộc
hàng
kinh
điển
của
sân
khấu
cải
lương.Bỏ
đời
ngư
phủ
theo
nghiệp
cầm
ca
Nghệ
sĩ
Thanh
Sang
tên
thật
Nguyễn
Văn
Thu,
sinh
năm
1943
tại
xã
Phước
Hải,
tỉnh
Bà
Rịa
-Vũng
Tàu.
Gia
đình
ông
làm
nghề
chài
lưới,
rất
nghèo
khổ,
lại
đông
con,
mà
ông
lại
là
con
trai
một,
nên
cái
gánh
nặng
gia
đình
tự
nhiên
trở
thành
một
áp
lực
vô
hình
đè
nặng
lên
ông,
để
phải
tìm
mọi
cách
đổi
đời
cho
gia
đình
bớt
khổ.
Nếu
ai
có
dịp
về
Phước
Hải
sẽ
không
khỏi
ngậm
ngùi
khi
nói
tiếng
chia
tay
với
vùng
duyên
hải
thơ
mộng
này.
Núi
non
hùng
vĩ
đứng
bên
bờ
biển
bao
la
của
vùng
Phước
Hải
đã
kết
tinh
thành
một
giọng
ca
buồn
miên
man
nhưng
đầy
khí
khái
của
cậu
bé
tên
Thu.
Thuở
nhỏ,
Thanh
Sang
học
ca
vọng
cổ
theo
tiếng
đờn
của
danh
cầm
Văn
Vĩ
trên
đài
phát
thanh,
12
giờ
khuya
hằng
đêm
mà
ông
nghe
ké
được
từ
nhà
hàng
xóm.
Khi
biết
ca
rồi,
ông
bèn
năn
nỉ
mấy
thầy
đờn
tập
giùm
những
lúc
họ
rỗi
rảnh.
Về
diễn
xuất
cũng
vậy,
vẫn
theo
đà
của
thế
hệ
vàng,
nghề
ca
hátđược
truyền
theo
kiểu
nghề
dạy
nghề,
Thanh
Sang
ngồi
cánh
gà
coi
riết
rồi
thuộc
hết
thảy
các
vai
tuồng,
kể
cả
vai
nữ.
Để
rồi
lại
“trông
mong”
có
nghệ
sĩ
nào
bị
đau
ốm
để
được
lên
đóng
thế.
Mới
hơn
14
tuổi
ông
đã
bắt
đầu
theo
nghiệp
tổ.
Cái
áp
lực
khi
ấy
đối
với
ông
nặng
lắm,
bởi
đã
bỏ
nghề
cá
và
bỏ
xứ
theo
nghiệp
hát
ca
thì
phải
làm
sao
có
chút
đỉnh
thành
công,
nếu
không
thì
còn
mặt
mũi
nào
dám
trởlại
nhìn
mặt
xóm
làng.
Áp
lực
nặng
đến
mức
mà
Thanh
Sang
từng
ví
chuyến
đi
của
mình
như
:
“Kinh
Kha
qua
sông
Dịch”.
Con
đường
khởi
nghiệp
của
Thanh
Sang
cũng
lắm
gian
nan.
Ông
kể,
chờ
hoài
mà
mấy
anh
kép
chánh
không
chịu
bệnh,
chỉ
có
kép
phụ
bị
làm
khó
làm
dễ
rồi
xin
nghỉ
để
mới
được
cho
đóng
thế
vai
phụ.
Những
vai
phụ
đầu
tiên
của
chàng
trai
tuổi
đôi
mươi
lại
là
vai
lão.
Lúc
trẻ
tên
tuổi
Thanh
Sang
gắn
với
vai
lão
nhiều
hơn.
Đúng
như
câu
“Tái
ông
thất
mã”,
cuộc
đời
mà,
trong
cái
rủi
thì
ắt
hẳn
có
cái
may,
cũng
chính
nhờ
đóng
vai
lão
mà
Thanh
Sang
đã
đạt
đến
đỉnh
cao
vinh
quang
khi
đoạt
Huy
chương
vàng
giải
Thanh
Tâm
vào
năm
1964,
giải
thưởng
cải
lương
danh
giá
nhất
tính
đến
hiện
tại.
Vai
diễn
đưa
Thanh
Sang
đến
với
giải
thưởng
cao
quí
này
là
vai
Tạ
Tốn
trong
vở
“Cô
Gái
Đồ
Long”.
Đây
là
một
vai
diễn
rất
khó,
vì
người
diễn
bị
mất
đi
một
vũ
khí
diễn
xuất
lợi
hại
nhất
của
người
nghệ
sĩ
trên
sân
khấu,
đó
là
đôi
mắt,
do
Tạ
Tốn
là
một
nhân
vật
mù.
Hơn
nữa
đây
là
một
nhân
vật
có
tuổi,
mà
lại
cùng
với
bao
sóng
gió
của
cuộc
đời,
Tạ
Tốn
lại
càng
trở
nên
già
nua
với
ngổn
ngang
tâm
sự.
Như
tổ
nghiệp
đã
cố
tình
sắp
đặt,
giọng
ca
của
Thanh
Sang
rất
hợp
với
nhân
vật
Tạ
Tốn
này:
giọng
ca
u
buồn,
đong
đầy
tâm
sự,
nhưng
luôn
có
một
xung
lực
phi
thường,
cách
diễn
của
Thanh
Sang
lại
rất
chừng
mực,
nên
đã
thể
hiện
xuất
sắc
vai
diễn
này.
Có
vẻ
ban
tổ
chức
của
giải
Thanh
Tâm
đã
có
lý
khi
quyết
định
trao
huy
chương
vàng
cho
Thanh
Sang,
vì
đến
hiện
tại
vai
Tạ
Tốn
vẫnđược
xem
là
“vai
của
Thanh
Sang”,
bởi
chưa
thấy
ai
đóng
qua
được.
Sự
có
lý
của
ban
tổ
chức
giải
Thanh
Tâm
còn
được
khẳng
định
thêm,
khi
năm
1964
cùng
với
Thanh
Sang
thì
nữ
nghệ
sĩ
Lệ
Thủy
cũng
nhận
giải
thưởng
cao
quí
này.
Và
đến
hiện
tại,
hai
nghệ
sĩ
này
đã
thật
sự
vượt
mong
đợi
của
những
người
trao
giải
với
những
thành
công
không
thể
nào
rực
rỡ
hơn
nữa
trên
sân
khấu
cải
lương.
Thanh
Sang
-Thanh
Nga:
Đôi
bạn
diễn
“xưa
nay
hiếm”
Thanh
Sang
từng
tâm
sự
rằng,
khi
còn
trẻ
thì
được
giao
đóng
vai
già,
còn
khi
lớn
tuổi
lại
được
chọn
đóng
vai
kép
trẻ.
Quả
thật
vậy,
và
sự
chọn
lựa
này
của
các
đạo
diễn
dành
cho
Thanh
Sang
không
phải
là
không
có
lý,
bởi
cái
vai
già
ông
đóng
khi
trẻ
cũng
thành
công,
mà
cái
vai
trẻ
ông
đóng
khi
già
cũng
lại
rất
thành
công.
Nói
về
vai
kép
chính
trẻ
trung
đầu
tiên
của
Thanh
Sang
phải
nhắc
đến
vai
Đông
Nhật
trong
vở
Tuyết
Phủ
Chiều
Đông.
Đây
cũng
là
một
cơ
duyên,
bởi
khi
ấy
ở
đoàn
Ngọc
Kiều
của
ông
bầu
Hoàng
Kinh,
anh
kép
chánh
Hùng
Cường
vừa
đánh
người
phải
đi
hầu
tòa,
nên
Thanh
Sang
được
chọn
thế
vai
cho
Hùng
Cường,
và
con
đường
kép
chánh
của
Thanh
Sang
bắt
đầu
từ
đó.
Thế
nhưng,để
gọi
là
thành
công
rực
rỡ,
tức
tạo
được
dấu
ấn
trong
lòng
người
mộ
điệu
cải
lương,
thì
phải
chờ
đến
khi
Thanh
Sang
về
đoàn
Thanh
Minh
-Thanh
Nga
của
bà
Bầu
Thơ,
mẹ
của
cố
nghệ
sĩ
Thanh
Nga.
Ở
đó,
tổ
nghiệp
dường
như
đã
có
ý
đền
đáp
cho
thái
độ
làm
nghệ
thuật
nổi
tiếng
nghiêm
túc
của
bà
Bầu
Thơ
bằng
cách
ban
cho
đoàn
hát
của
bà
một
đôi
Kim
Đồng
Ngọc
Nữ
Thanh
Sang
-Thanh
Nga.
Đôi
bạn
diễn
thành
công
đến
mức
mà
đến
hiện
tại,
dù
có
bình
luận
thế
nào,
tranh
cãi
ra
sao,
thì
hễ
nhắc
đến
Thanh
Sang
người
ta
lập
tức
nghĩ
ngay
đến
Thanh
Nga,
mà
hễ
bàn
về
Thanh
Nga
thì
lại
nghĩ
ngay
đến
Thanh
Sang.
Cả
hai
đều
có
giọng
trầm
buồn,
đầy
nội
lực,
cách
ca
cách
diễn
rất
chừng
mực,
cách
làm
nghệ
thuật
rất
nghiêm
túc,
nên
sự
ăn
ý
trên
sân
khấu
đã
đạt
đến
mức
hoàn
hảo.
Năm
1978,
Thanh
Nga
bất
hạnh
qua
đời,
sự
ra
đi
này
là
một
tổn
thất
không
gì
bù
đắp
nổi
đối
với
sân
khấu
cải
lương,
bởi
đó
là
sự
ra
đi
của
một
nữ
nghệ
sĩ
tài
sắc
lưỡng
toàn
được
mệnh
danh
là
Nữ
hoàng
sân
khấu.
Thế
nhưng
mất
mát
cho
cải
lương
còn
ở
chỗ:
sự
ra
đi
của
Thanh
Nga
cũng
khiến
cho
sân
khấu
cải
lương
mất
một
đôi
bạn
diễn
thuộc
hàng
“xưa
nay
hiếm”.
Trần
Minh
-Thanh
Sang:
Ca
nội
tâm,
diễn
chân
phương
Vỡ
tuồng
Bên
Cầu
Dệt
Lụa
đã
mang
đến
hai
hình
tượng
thuộc
hàng
đẹp
nhất
cho
sự
thủy
chung
son
sắt.
Nếu
Thanh
Nga
xuất
sắc
với
vai
nàng
tiểu
thư
Quỳnh
Nga
dám
vượt
khuê
môn
đến
chăn
tằm
dệt
vải
bên
cầu
để
lấy
tiền
cho
người
chồng
hứa
hôn
lên
kinh
ứng
thí,
thì
Thanh
Sang
cũng
đáp
lại
bằng
vai
diễn
để
đời
với
một
hàn
sĩ
Trần
Minh,
bị
nhạc
trượng
tương
lai
ruồng
bỏ
do
chê
gia
thế
bần
hàn,
đến
độ
mẹ
ruột
bị
hành
hạ
đến
uất
ức
mà
mang
bệnh
chết.
Trong
nghịch
cảnh
ấy,
lòng
thù
hận
của
Trần
Minh
đối
với
nhạc
trượng
đã
được
hóa
giải
bằng
tấm
chân
tình
của
người
vợ
hứa
hôn
Quỳnh
Nga.
Để
rồi,
khi
đỗ
trạng
nguyên,
bị
vua
dùng
quyền
uy
tối
thượng
ép
chàng
phải
cưới
công
chúa,
Trần
Minh
đã
từ
chối
cái
ngôi
phò
mã
cao
sang,
thậm
chí
sẵn
sàng
chấp
nhận
cái
chết
để
giữ
cho
vẹn
thủy
toàn
chung
với
người
vợ
tào
khang
Quỳnh
Nga
ở
quê
nhà.
Lớp
diễn
Trần
Minh
đối
đáp
với
vua
và
công
chúa
giữa
trào
đình
là
một
lớp
diễn
xuất
thần
của
Thanh
Sang.
Nét
khẳng
khái,
sự
quyết
liệt,
cách
đối
đáp
chân
thật
mà
uyên
bác,
thâm
thúy
mà
giản
đơn
đã
được
Thanh
Sang
thể
hiện
một
cách
nhẹ
nhàng,
tinh
tế:
nhẹ
nhàng
vì
Thanh
Sang
có
lối
diễn
chừng
mực
không
phô
trương,
tinh
tế
vì
Thanh
Sang
biết
khai
thác
tối
đa
thế
mạnh
của
giọng
ca
đầy
nội
tâm
để
biểu
đạt
hết
cái
thần
của
nhân
vật.
Một
nét
đáng
chú
ý
trong
lớp
diễn
này,
nhất
là
đoạn
Trần
Minh
ca
hai
câu
vọng
cổ
đối
đáp
với
vua
khi
vua
mang
gươm
lệnh
ra
dọa
nếu
Trần
Minh
từ
chối
ngôi
phò
mã
thì
sẽ
phải
mất
đầu:
đây
là
một
lớp
diễn
rất
khó.
Khó
trước
tiên
là
về
cách
diễn
xuất
phải
làm
sao
bộc
lộ
được
sự
quyết
liệt
từ
chối
nhưng
phải
giữ
được
đạo
quân
thần,
chứ
không
phải
từ
chối
của
một
kẻ
bình
dân,
mà
là
từ
chối
của
bậc
trạng
nguyên
có
ăn
có
học.
Cái
khó
thứ
hai
mà
cũng
là
cái
khó
chính,
đó
là
lời
bài
ca
trong
lớp
diễn.
Hai
câu
vọng
cổ
mà
Trần
Minh
ca
đối
đáp
với
vua
hàm
chứa
rất
nhiều
điển
tích,
mà
phải
chi
điển
tích
là
những
câu
chuyện
dài
thì
còn
có
thể
nắm
cốt
chuyện
mà
nhớ,
đằng
này
lại
liên
quan
đến
một
loạt
các
tên
tuổi
lấy
từ
Đông
Chu
Liệt
Quốc
bên
Tàu.
Chẳng
hạn
như
đoạn
đối
thoại
có
những
lời
như
sau:
“Muôn
tâu,
thánh
như
Ngũ
đế,
nhân
như
Tam
Vương,
mạnh
như
Ô
Hoạch,
dõng
như
Mạnh
Bôn
Hạ
Dục
mà
còn
phải
chết,
trên
đời
có
ai
thoát
khỏi
chết
đâu
mà
thần
phải
sợ”.
Chúng
ta
thấy,
dẫu
là
người
có
học
cao,
khi
ca
đoạn
này
cũng
phải
học
thật
kỹ,
nếu
không
khi
đang
ca
trong
lòng
bản
vọng
cổ,
không
có
thời
gian
đâu
mà
suy
nghĩ
nhiều,
nên
việc
nói
nhanh
mà
nhầm
lẫn
tên
là
rất
khả
dĩ.
Ấy
thế
nhưng
ở
Thanh
Sang
cách
diễn
xuất
rất
tự
nhiên,
cách
ca
rất
trôi
chảy,
lời
ca
trong
nét
diễn,
nét
diễn
trợ
lời
ca,
cho
thấy
đó
thật
sự
là
một
Trạng
Nguyên
thuộc
lào
kinh
sử,
chứ
không
phải
là
một
anh
kép
hát
đang
vừa
ca
vừa
vắt
óc
nhớ
lời
hoặc
ca
một
cách
vô
hồn,
không
hiểu
gì
về
tên
những
nhân
vật
mà
minh
đề
cập.
Xuất
thân
hàn
vi
nên
Thanh
Sang
không
được
ăn
học
nhiều,
nhưng
Thanh
Sang
luôn
chịu
khó
tự
trao
dồi
kiến
thức,
và
khi
ca
diễn
ông
có
thể
hiểu
trọn
vẹn
những
tích
tuồng
mà
mình
tham
gia
đóng.
Trong
giới
cải
lương,
Thanh
Sang
được
mệnh
danh
là
người
có
hiểu
biết
rộng,
thông
tuệ
nhiều
thứ.
Thế
mới
thấy
được
sự
phấn
đấu
phi
thường
đáng
trân
trọng
của
nghệ
sĩ
Thanh
Sang,
một
sự
phấn
đấu
mà
không
phải
những
ngườiđược
xem
là
trí
giả
đôi
khi
còn
không
có.
Thế
mới
thấy
thế
hệ
nghệ
sĩ
trẻ
sau
này
nên
soi
vào
đó
để
tự
trao
dồi,
trao
dồi
không
chỉ
kiến
thức
chuyên
môn,
mà
còn
cả
những
kiến
thức
sử
xanh
cần
thiết.
Lớp
diễn
để
đời
khác
trong
tuồng
Bên
Cầu
Dệt
Lụa
là
đoạn
Trần
Minh
đỗ
trạng
nguyên
xong
về
lại
quê
xưa,
nhưng
xin
phép
vua
không
làm
lễ
vinh
quy
bái
tổ
rình
rang
như
thông
lệ,
mà
lại
chọn
cách
xếp
cờ
êm
trống,
mặc
áo
cơ
hàn
mang
bầu
rượu
nhạt
đến
tìm
gặp
người
bạn
tri
giao
là
hàn
sĩ
Nhuận
Điền.
Nghệ
sĩ
Thanh
Tú
thủ
vai
Nhuận
Điền
đã
cùng
Trần
Minh
-Thanh
Sangđể
lại
cho
đời
một
tình
bạn
tri
âm
tri
kỷ
đúng
nghĩa.
Đặc
biệt,
khi
Nhuận
Điền
ngạc
nhiên
thấy
Trần
Minh
đã
là
trạng
nguyên
mà
còn
mang
rượu
mua
ở
quán
nghèo
tại
quê
hương
đến
mời
bạn,
Nhuận
Điền
hỏi:
“Giờ
đã
là
trạng
nguyên
rồi
mà
còn
uống
được
rượu
quán
nghèo
nơi
xóm
cũ
à?”,Trần
Minh
-Thanh
Sang
vô
vọng
cổ
câu
5
để
trả
lời:
“Uống
chớ
đại
huynh,
tuy
rượu
quán
nghèo
mà
nồng
nàn
hương
vị,
xin
kính
cẩn
nâng
ly
mời
tri
kỷ,
mượn
chén
rượu
ngày
xưa
cho
tròn
vẹn…
thâm
….tình”.
Giọng
ca
Thanh
Sang
trầm
ấm,
trữ
tình,
chứa
đầy
tâm
sự,
nên
chỉ
với
bốn
chữ:
“Uống
chớ
đại
huynh”
thôi
thì
người
nghe
cũng
có
thể
hiểu
được
trọn
vẹn
nổi
lòng
của
nhân
vật
rồi.
Chỉ
bốn
chữ
đơn
giản
như
thế
mà
đến
giờ
phút
này,
đã
có
không
ít
nghệ
sĩ
trích
lại
đoạn
nói
trên,
nhưng
chưa
thấy
ai
đạt
đến
trình
độ:
“Bốn
chữ
nói
lên
tất
cả”
như
Thanh
Sang.
Thế
nhưng,
trong
vở
tuồng
Bên
Cầu
Dệt
Lụa,
khi
nhắc
đến
Quỳnh
Nga
-Trần
Minh,
người
mộ
điệu
nghĩ
ngay
đến
đoạn
Quỳnh
Nga
đến
tiễn
Trần
Minh
lên
đường
lai
kinh
ứng
thí.
Nàng
mang
đến
cho
chàng
gói
hành
trang,
lộ
phí,
mà
điều
đáng
quý
là
tất
cả
những
thứ
đó
đều
do
tự
tay
nàng
làm
ra
sau
khi
rời
khỏi
lầu
son
gác
tía
trong
phủ
quan
huyện
của
cha
nàng
để
đến
dựng
quán
bán
vải
bên
cầu.
Ý
nghĩa
nhất
lúc
này
đó
là
chiếc
áo
ngự
hàn
mà
nàng
đã
thức
suốt
bao
đêm
để
dệt
bằng
“tơ
tâm
sự”.
Thanh
Nga
ca
hai
câu
vọng
cổ
để
trao
gói
hành
trang,
thì
Thanh
Sang
sau
đó
cũng
ca
hai
câu
vọng
cổ
đáp
tạ
chân
tình.
Đoạn
ca
này
cả
hai
đã
thật
sự
đạt
trình
độ
thượng
thừa
về
ca
diễn.
Đặc
biệt
về
ca,
tất
cả
những
tình
cảm
cần
thể
hiện
đãđược
đôi
nghệ
sĩ
ngọc
ngà
này
của
sân
khấu
cải
lương
đưa
hết
vào
trong
lời
ca.
Đáp
lại
Quỳnh
Nga
-Thanh
Nga,
Trần
Minh
-Thanh
Sang
đã
ca
như
vầy:
“Quỳnh
Nga
ơi
nhận
vật
trao
tay
ta
nghẹn
ngào
muốn
khóc,
rừng
rực
lửa
yêu
đương
ta
nguyện
cùng
ai
thề
giữ
vẹn
chữ
…chung…tình”.
Những
chữ
“Quỳnh
Nga
ơi
nhận
vật
trao
tay
ta
nghẹn
ngào
muốn
khóc”
được
Thanh
Sang
đưa
hết
tình
cảm
vào
đó.
Với
giọng
ca
đầy
nội
lực
và
nội
tâm
của
Thanh
Sang,
chỉ
với
mấy
chữ
mở
đầu
này
cũng
đủ
để
khán
giả
cảm
được
sự
rưng
rung
nước
mắt
trong
lòng
của
bậc
trượng
phu
Trần
Minh,
không
cần
phải
xem
thêm
động
tác
gì
nữa.
Giọng
ca
của
Thanh
Sang
rất
thích
hợp
cho
những
vai
nội
tâm
cao,
đây
là
một
ưu
thế
của
ông,
nên
ông
đã
triệt
để
khai
thác,
và
khai
thác
một
cách
xuất
sắc
cho
đoạn
ca
này.
Nhiều
nghệ
sĩ
thế
hệ
sau
ca
diễn
lại
đoạn
này,
nhưng
do
giọng
ca
thiếu
nội
lực,
do
không
có
được
làn
hơi
đầy
nội
tâm
như
Thanh
Sang,
hoặc
do
diễn
hơi
bị
lố,
nên
chưa
thấy
có
ai
thể
hiện
xuất
thần
đoạn
này
như
Thanh
Sang.
Thành
công
của
Thanh
Sang
trong
Bên
Cầu
Dệt
Lụa
đến
mức
mà
khán
giả
miền
Tây
thường
biết
đến
tuồng
cải
lương
này
qua
tên
Trần
Minh
Khố
Chuối,
và
hình
tượng
một
Trần
Minh
nghèo
khổ
hiếu
học,
vẹn
thủy
toàn
chung
đã
đi
vào
đời
sống
thường
nhật
của
người
Nam
Bộ,
bởi
rất
thường
khi
gặp
một
người
nam
nghèo
khổ
có
chí
học
hành
thì
nhiều
người
gọi
ngay
đó
là
“Trần
Minh
khố
chuối”.
Thi
Sách
-Thanh
Sang:
Đỉnh
cao
của
nét
diễn
bi
hùng
Một
vai
diễn
để
đời
nữa
của
Thanh
Sang
là
vai
Thi
Sách
trong
vở
Tiếng
Trống
Mê
Linh
cũng
đóng
cặp
với
Nữ
hoàng
sân
khấu
Thanh
Nga.
Nếu
trong
vai
Trưng
Trắc,
Thanh
Nga
đã
tạo
ra
những
đỉnh
cao
nghệ
thuật
mà
cho
đến
giờ
này
chưa
nữ
nghệ
sĩ
cải
lương
nào
vượt
qua,
thì
Thanh
Sang
cũng
đã
“gây
khó
dễ”
cho
thế
hệ
sau
với
vai
Thi
Sách,
bởi
đến
hiện
tại
chưa
thấy
ai
tiếp
bước
một
cách
xứng
tầm
cho
vai
diễn
này.
Và
hễ
nhắc
đến
Thi
Sách
trong
Tiếng
Trống
Mê
Linh
là
người
mộ
điệu
nghĩ
ngay
đến
Thanh
Sang.
Lớp
diễn
để
đời
cho
cả
hai
nghệ
sĩ
bậc
thầy
này
là
lớp
Trưng
Trắc
-Thanh
Nga
tế
sống
Thi
Sách
-Thanh
Sang
trước
cửa
thành
Luy
Lâu.
Số
là
Thi
Sách
bị
Tô
Định
bắt
đem
lên
giàn
hỏa
để
uy
hiếp
buộc
Trưng
Trắc
lui
quân.
Thế
nhưng,
vận
mệnh
non
sông
chỉ
còn
ở
trận
đánh
đó
thôi,
chỉ
còn
ở
thời
cơ
đó
thôi.
Nợ
nước
tình
nhà
đè
nặng
lên
vai
Trưng
Trắc.
Thanh
Nga
đã
xuất
thần
trong
lớp
diễn
tế
sống
chồng
với
hai
câu
vọng
cổ
thuộc
hàng
“quỷ
khốc
thần
sầu”.
Thi
Sách
-Thanh
Sang
cũng
không
hề
lép
vế
với
bạn
diễn.
Trên
giàn
hỏa,
Thi
Sách-Thanh
Sang
khảng
khái
khuyên
vợ
đặt
việc
nước
trước
tình
nhà
để
tấn
binh
diệt
giặc.
Thanh
Sang
cũng
đã
ca
hai
câu
vọng
cổ
thuộc
hàng
“thần
sầu
quỷ
khốc”.
Cả
hai
đã
gặp
nhau
ở
một
điểm,
mà
lại
là
điểm
quyết
định
cho
giá
trị
thật
sự
của
vai
diễn,
đó
là:
sự
bi
hùng.
Trưng
Trắc
-Thanh
Nga
tế
sống
chồng
trước
ba
quân
nên
không
thể
“bi
lụy”
được,
còn
Thi
Sách
-Thanh
Sang
lên
tiếng
khuyên
vợ
trước
ba
quân
cũng
phải
dằn
niềm
riêng
mà
quyết
chí
vì
nghĩa
lớn
của
dân
tộc.
Như
đã
nói,
thế
mạnh
của
Thanh
Sang
là
có
một
giọng
ca
biểu
lộ
nội
tâm
rất
tốt,
bởi
vậy
Thanh
Sang
đã
vận
dụng
thế
mạnh
này
một
cách
tuyệt
vời
cho
vai
Thi
Sách
và
đặc
biệt
là
cho
đoạn
trên
giàn
hỏa.
Trong
đoạn
ca
kêu
gọi
Trưng
Trắc-Thanh
Nga
tiến
quân,
Thi
Sách
-Thanh
Sang
ca
như
vầy:
“Ta
cám
ơn
tất
cả
đã
tạm
đình
binh
để
kéo
dài
mạng
sống
cho
ta
dù
trong
phút
giây
ngắn
ngủi.
Nhưng
nàng
hãy
ra
lệnh
cho
nghĩa
binh
anh
dũng
hãy
nổi
trống
đồng
lên.
Hãy
nổi
trống
tấn
công
đi…”.
Sáu
chữ
“Hãy
nổi
trống
tấn
công
đi”
của
Thi
Sách
-Thanh
Sang
âm
vang,
uy
vũ,
nhưng
lại
rất
chan
chứa
tâm
tình.
Uy
vũ
vì
là
lời
ra
lệnh
với
tư
cách
chủ
tướng
dành
cho
thuộc
cấp,
chan
chứa
thâm
tình
vì
thuộc
cấp
chẳng
ai
khác
là
người
vợ
tào
khang,
bảo
vợ
tấn
binh
tức
đồng
nghĩa
với
việc
âm
dương
hai
ngã,
nhưng
biết
làm
sao
hơn
khi
mà
“Sống
thác
là
chuyện
đi
về,
hợp
tan
là
trò
dâu
bể.
Tất
cả
đều
không
có
đáng
kể.
Mà
điều
đáng
lo
là
sự
trường
tồn
của
dòng
dõi
Hùng
Vương”.
Tác
giả
bài
viết:
meoxu
Nguồn
tin:
Lê
Phước
-
RFI
Ý kiến bạn đọc