Đang
truy
cập
:
212
•Máy chủ tìm kiếm : 73
•Khách viếng thăm : 139
Hôm
nay
:
9703
Tháng
hiện
tại
:
970716
Tổng
lượt
truy
cập
:
101253245
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Dịch đại bài thơ ra tiếng Việt:
Cuộc
hôn
nhân
Ngô
Thục
được
thực
hiện
ở
bến
này.
Rèm
xe
giát
minh
châu,
màn
đính
vàng
bạc.
Có
ai
vì
một
người
phụ
nữ
lại
coi
nhẹ
thiên
hạ,
Mà
hòng
thay
đổi
chí
tam
phân
của
Chàng
Lưu?
Chuyện kể trong cuộc tranh dành quyền bá chủ Trung Quốc cuối đời Hán, Lưu Bị, Tôn Quyền, Tào Tháo diệt tất cả những sứ quân khác, chia Trung Quốc ra làm ba nước, lập nên ba nhà Ngụy Tào Tháo, Thục Lưu Bị, Ngô Tôn Quyền.
.
Lưu Bị, nhờ có Quân sư Khổng Minh giúp mưu, chiếm đuợc đất Kinh Châu. Tôn Quyền, có Chu Du hiến kế, cho Kinh Châu theo công pháp quốc tế là của mình nên đòi lại. Lưu Bị nhùng nhằng, nhủng nhẳng không chịu trả.
Chu Du hiến cái gọi là “Mỹ nhân kế” với Ngô chủ Tôn Quyền: nhân Lưu Bị mới goá vợ, đặc phái ông mai Lỗ Túc sang Kinh Châu đề nghị gả Ngô Quận chúa, em gái Tôn Quyền, cho Lưu Bị. Nếu nhận lời Lưu Bị phải đích thân sang Ðông Ngô rước dâu. “Diệu kế” của Chu Công Cẩn là chờ cho Lưu Bị dẫn xác sang, không có cưới, có xin, có hôn, có hít chi ráo trọi, tóm cổ chú rể và làm chú rể mất chỗ đội mão liền một khi.
Nhưng như các em nhỏ lên ba, các cụ già Chín Bó đều biết, kế sách của Ðông Ngô thì như dzậy nhưng việc thực hiện kế sách thì lại hổng như dzậy. Không những chỉ hổng như dzậy suông, nó còn một ly ông cụ hổng như dzậy. Tam Quốc Chí diễn nghĩa cho ta thấy Thuyền Trưởng Hai Tầu Lưu Bị — Lưu Lang hai vợ: Cam phu nhân, mẹ A Ðẩu Lạc bất tư Thục, mãn phần trong trận Ðương Dương Trường Bản, My phu nhân đi tầu suốt sau khi Lưu Lang đã ngồi ấm chỗ ở Kinh Châu. Năm mới, đầu xuân, ta dùng những tiếng “mãn phần, đi tầu suốt” nghe không làm ta dzui hơn nhưng có thể làm ta đỡ buồn hơn — Nhưng khi Thuyền Trưởng Hai Tầu Lưu Bị, nay là Thuyền Trưởng Không Tầu vì không có tầu nào để chạy, nghe lời Khổng Minh, cùng Triệu Tử Long sang Ðông Ngô lãnh tầu mới, mưu kế “Cúp pê la Tết Lưu Bị” của Chu Du lại không được thi hành. Nói đúng hơn là không được thực hiện trọn vẹn.
Bốn mươi mùa cóc xanh biếc, cóc chín vàng trên những xe ba bánh trong đường phố Sài Gòn, thành phố thủ đô đã mất của ctôi trước đây, khi đọc Tam Quốc Chí bản dịch Tử Vi Lang, đến đoạn Lưu Bị sang Ðông Ngô cưới em Ngô Quận chúa trẻ măng, chú rể Lưu Bị ở lại dzui cuộc tân hôn động phòng hoa chúc kiêm tuần trăng mật, trăng đường, cả năm trường rồi lại phom phom đưa vợ về Kinh Châu an toàn xa lộ, người viết ở Rừng Phong đi một đường théc méc:
— Tại sao Tôn Quyền, Chu Du lại không thực hiện phần hai, phần quan trọng nhất, của Mưu Kế Cúp-pê La Tết Lưu Bị? Mưu kế định trước: dụ Lưu Bị sang để giết. Lưu Bị dẫn xác sang đúng như dự mưu, tại sao không giết? Lưu Bị sang sông chỉ có Triệu Tử Long và 500 quân đi theo. Dù Triệu Tử Long có võ nghệ siêu quần, nếu Ðông Ngô cho các tướng Cam Ninh, Chu Thái, Từ Hoảng, Ðinh Phụng thống lĩnh 5000 quân vây đánh ngay từ lúc thuyền Lưu Bị mới cập bến thì chắc hơn bắp rang, chắc hơn cua gạch là tính mạng Lưu Bị, Triệu Vân nhất định sẽ — văn huê cải lương là trôi theo dòng Trường Giang ra biển Ðông — nôm na là tiêu tán thoòng..
Nhưng Ngô Quyền, Chu Du — không hiểu tại sao — đã không thi hành kế sách và kết quả là:
“Chu
Du
diệu
kế
an
thiên
hạ.
Bồi
liễu
phu
nhân
hựu
chiết
binh..”
và Chu Du thổ huyết. Lập mưu, giăng bẫy dụ con mồi, con mồi phom phom chui dzô bẫy, không xuống tay còn chờ gì nữa ? Trên cõi đời may tay có lời này những anh vừa đé vừa run như Chu Công Cẩn thì thổ huyết là đúng thôi.
i.
Chuyện Lưu Bị từ Kinh Châu, bên phải sông Trường Giang nên có tên là Giang hữu, sang bờ bên trái sông Trường Giang — Giang tả — cưới vợ, được soạn thành vở tuồng Giang Tả Cầu Hôn. Người viết ở Rừng Phong mù tịt về bộ môn nghệ thuật dân tộc Tuồng Cổ, Tuồng Kim nên không dám nói chắc vở Giang Tả Cầu Hôn đích xác thuộc loại Tuồng gì — Tuồng Tầu thì chắc là Tuồng Tầu rồi đó. Nói rõ hơn là Tuồng chuyện Tầu nhưng do tác giả người Việt soạn, hát ca bằng tiếng Việt, do đào kép người Việt diễn, cho khán giả đàn bà, con gái, trẻ em Việt xem. Song dường như Giang Tả Cầu Hôn không phải là Tuồng Hát Bộ, Hát Bội, Hát Quảng, Hát Tiều, cũng không phải là tuồng cải lương như Dưới Mái Tây Hiên, Lan và Ðiệp, Sơn nữ Phà Ca, Sầu lên ngọn cỏ.. Người viết không biết rõ vì một lý do đơn giản là trong thời gian vở tuồng Giang Tả Cầu Hôn được trình diễn người viết đang ở trong cái tuổi được ông Duyên Anh trên tuần báo Tuổi Ngọc gọi là tuổi Ngày Xưa Còn Bé, tức tuổi đời mới khoảng Một Bó, tuổi hãy còn trinh tiết. Người viết chỉ được nghe nói là ngày Tết những năm xa xưa đồng bào ta có lệ đi coi hát đầu năm gọi là Bói Tuồng. Vở tuồng đang diễn người đi coi Bói Tuồng bất chợt vào xem. Gập đoạn tuồng vui là cả năm vui vẻ, gập đoạn tuồng buồn là cả năm sui sẻo. Những ông Bầu gánh hát biết tâm lý đó của khán giả nên trong mấy ngày Tết chỉ cho diễn toàn những vở tuồng vui.
Chuyện Lưu Bị từ Kinh Châu, bên phải sông Trường Giang nên có tên là Giang hữu, sang bờ bên trái sông Trường Giang — Giang tả — cưới vợ, được soạn thành vở tuồng Giang Tả Cầu Hôn. Người viết ở Rừng Phong mù tịt về bộ môn nghệ thuật dân tộc Tuồng Cổ, Tuồng Kim nên không dám nói chắc vở Giang Tả Cầu Hôn đích xác thuộc loại Tuồng gì — Tuồng Tầu thì chắc là Tuồng Tầu rồi đó. Nói rõ hơn là Tuồng chuyện Tầu nhưng do tác giả người Việt soạn, hát ca bằng tiếng Việt, do đào kép người Việt diễn, cho khán giả đàn bà, con gái, trẻ em Việt xem. Song dường như Giang Tả Cầu Hôn không phải là Tuồng Hát Bộ, Hát Bội, Hát Quảng, Hát Tiều, cũng không phải là tuồng cải lương như Dưới Mái Tây Hiên, Lan và Ðiệp, Sơn nữ Phà Ca, Sầu lên ngọn cỏ.. Người viết không biết rõ vì một lý do đơn giản là trong thời gian vở tuồng Giang Tả Cầu Hôn được trình diễn người viết đang ở trong cái tuổi được ông Duyên Anh trên tuần báo Tuổi Ngọc gọi là tuổi Ngày Xưa Còn Bé, tức tuổi đời mới khoảng Một Bó, tuổi hãy còn trinh tiết. Người viết chỉ được nghe nói là ngày Tết những năm xa xưa đồng bào ta có lệ đi coi hát đầu năm gọi là Bói Tuồng. Vở tuồng đang diễn người đi coi Bói Tuồng bất chợt vào xem. Gập đoạn tuồng vui là cả năm vui vẻ, gập đoạn tuồng buồn là cả năm sui sẻo. Những ông Bầu gánh hát biết tâm lý đó của khán giả nên trong mấy ngày Tết chỉ cho diễn toàn những vở tuồng vui.
Giang Tả Cầu Hôn là một vở tuồng vui điển hình thường được diễn trong những ngày Tết năm xưa để khán giả bói Tuồng đầu năm. Ðó là chuyện những năm xưa, còn nguyên nhân tại sao năm nay — Năm Mèo Liếm Buà, 2011 — bài thơ Lưu Lang phố và chuyện Lưu Bị Giang Tả Cầu Hôn lại xuất hiện trên trang báo này? Xin thưa:
Số là theo truyền thống và thủ tục không biết có tự bao giờ của làng báo Việt Nam về báo Xuân, báo Tết. Năm con giáp nào đều phải có những bài viết về con giáp ấy. Năm 2009, năm Sửu, những anh Thợ Viết phải viết những bài Trâu Ðánh cho các báo Xuân Trâu. Năm 2010 là năm Dần, những bài viết loạn cào cào về Hổ nằm đầy trong những báo Xuân. Người viết ở Rừng Phong trong khi tìm kiếm trên những trang sách đề tài về Mèo để viết bài Xuân Mèo bắt gập bài thơ “ Lưu Lang phố,” nên nhớ đến chuyện Bói Tuồng ngày Tết của đồng bào ta những năm xưa và thấy có đôi điều cần nói nhân bài thơ.
Có
ai
vì
một
người
con
gái
lại
coi
nhẹ
thiên
hạ,
Mà
toan
thay
đổi
chí
tam
phân
của
Chàng
Lưu?
Thi sĩ Lữ Ôn cho rằng trên đời này — đúng ra là trên đời Ðường, hoặc đời Hán bên Tầu — chẳng có anh đàn ông nào vì một người đàn bà mà coi nhẹ thiên hạ. Thi sĩ đưa ra bằng chứng:
Lưu Bị sang Giang Ðông cưới vợ nhưng không chịu ở rể Giang Ðông, hưởng thụ phú quí, vẫn trở về Kinh Châu tính chuyện khôi phục giang sơn nhà Hán. Lời nói quyết của Thi sĩ đúng trong trường hợp Lưu Bị và chỉ đúng trong trường hợp Lưu Bị mà thôi. Trên cõi đời này có rất nhiều anh đàn ông không làm như Lưu Bị.
Cuối đời Minh quân Mãn Thanh đe dọa xâm lăng Trung Quốc. Ðại tướng quân Ngô Tam Quế được phong làm Tổng Binh trấn thủ Sơn Hải Quan ngăn chặn quân Mãn Thanh. Ngô Tam Quế yêu Trần Viên Viên một kỹ nữ nổi danh thời ấy. Khi Ngô Tam Quế đang chống địch ở Sơn Hải Quan, Viên Viên sống ở kinh đô Bắc Kinh.
Năm 1644 Trung Hoa ngoài bị ngoại xâm, trong có nội loạn. Lý Tự Thành lãnh đạo quân khởi nghĩa đánh chiếm Bắc Kinh. Vua Minh Tự Tông, vị vua cuối cùng của Nhà Minh, tự vận. Nhà Minh đến đó là tiêu vong. Ngô Tam Quế lúc đầu đã định đầu hàng nghĩa quân nhưng được tin người tình Trần Viên Viên ở Bắc Kinh bị Lưu Tông Mẫn, một tướng của Lý Tự Thành, bắt làm thiếp. Mất người yêu Ngô Tam Quế đi một đường Tácdzăng nổi giận, bèn mượn tiếng cầu viện quân Mãn Thanh để trả thù cho Vua Minh nhưng thực ra là đầu hàng quân Mãn Thanh, mở Sơn Hải quan cho quân Mãn Thanh tiến vào nước Tầu. Ngô Tam Quế nhờ lực lượng quân Mãn đánh tan quân Lý Tự Thành. Nhân cơ hội ngàn năm một thưở quân Mãn Thanh đánh chiếm trọn lãnh thổ Trung Quốc, lập nên nhà Thanh, ngự trị trên cái “giang sơn giữa thế giới” của những chú tự nhận là Con Trời đến ba trăm mùa Táo Tầu. Ngô Tam Quế Ðại Hán Gian, Ðại Phản Tướng, cướp lại được Trần Viên Viên, trở thành một vị vương của nhà Thanh, Y chết già với người đẹp.
Không thể nào thay đổi được những gì đã xẩy ra. Ta dư biết việc đặt ra những tiếng “nếu” trong những sự kiện lịch sử chỉ là những giả thuyết nghe qua rồi bỏ. Như “nếu” năm xưa ấy cuộc đời ái tình và sự nghiệp của Ðại Tướng quân Ngô Tam Quế không có người đẹp Trần Viên Viên, hoặc có mà người đẹp của Ðại Tướng quân không bị anh Tướng khác vồ mất, những chuyện gì có thể đã xẩy ra? Khí số nhà Minh đã tận rồi. Nhà Minh phải đi ô tô bương thôi — Ði chỗ khác chơi để cho người khác làm vua. Một nhà làm vua mãi đâu có được. Tại sao lại cứ nhất định phải là những anh bị thịt con cháu Chu Nguyên Chương mới được làm Dzua Tầu? Lý Tự Thành lên làm Dzua Tầu thì đã sao? Biết đâu họ Lý lên làm Dzua nước Tầu đã chẳng khá hơn, dân Tầu đỡ khổ nhục hơn? — Nếu Ngô Tam Quế đang nắm đại binh theo về phe nghĩa quân Lý Tự Thành, quân chính quy nhà Minh có nghĩa quân tham gia nên thêm sức sống, đã chắc gì quân Mãn Thanh vượt được Sơn Hải Quan? Không những chỉ không chắc mà có thể là còn lâu, sức mấy, nhờ anh tí. Nói rõ hơn nếu không có em Trần Viên Viên gây ra ân oán mưa máu, gió tanh, long tranh, hổ đấu, dân Hán — giống dân bá quyền nước lớn kiêu căng nhất loài người — có thể đã không phải chịu cái nhục quì gối, cúi đầu trước một lô những anh Dzua không phải là dân Hán, không nói tiếng Hán, không bận y phục Hán.
Dân Hán, huỵch toẹt là những anh Ba Tầu, từ ngàn năm vẫn huynh hoang cho đất nước mấy ảnh là nước trung tâm trái đất, vẫn khinh miệt gọi những giống dân những nước chẳng may phải sống gần đất nước mấy ảnh mà Man, Di, Nhung, Ðịch. Mấy ảnh coi những giống dân ấy là thứ người cao cấp hơn loài vật nhưng không hẳn là người như mấy ảnh. Mấy ảnh chuyên đi chinh phục, xâm lăng, tiêu diệt, đồng hoá các nước láng giềng, bắt đàn bà, con gái các nuớc lân bang về làm nô tì. Ðau đớn cho mấy ảnh là trong một ngàn năm lịch sử cận đại hai lần mấy ảnh bị ngoại nhân đô hộ, hai lần mấy ảnh phải quì gối trước những kẻ mấy ảnh khinh là mọi rợ.
Ngô Vĩ Nghiệp, nhà thơ cuối Minh, đầu Thanh — 1609-1672 — làm bài thơ thất ngôn trường thi “Viên Viên Khúc” kể lại chuyện Ngô Tam Quế — Trần Viên Viên:
Ðỉnh
hồ
đương
nhật
khí
nhân
gian
Phá
địch,
thu
Kinh,
há
Ngọc
Quan.
Ðồng
khốc
lục
quân
câu
cảo
tố,
Xung
quan
nhất
nộ
vi
hồng
nhan.
Hồng
nhan
nhất
lạc
phi
ngô
luyến.
Nghịch
tặc
thiên
vong
tự
hoang
yến.
Ðiện
tảo
Hoàng
Châu,
định
Hắc
Sơn,
Khốc
bãi
quân
thân
tái
tương
kiến…
Bài thơ dài. Trên đây chỉ là mấy câu thơ đầu.
Dịch đại:
Ðấng Chí Tôn — Dzua Minh Tự Tông. Lại một cái tên tiền định: Tự Tông vợ chồng với Tự Vẫn, Tự Tử — ngày ấy từ bỏ nhân gian. Nôm na là đi tầu suốt, hai năm mươi, suôi sáu tấm, mặc áo bà ba gỗ…
Ðại Tướng quân — Ðại Hán gian Ngô Tam Quế — phá quân địch — quân địch đây là anh em Nghĩa quân Tầu — thu lại Kinh đô, vượt Ải Ngọc Quan.
Khóc than thảm thiết Sáu quân — sắp đầu hàng, tan hàng — mặc áo trắng, để tang.
Tướng quân — phản quân đội, phản quân vương, phản quốc, phản dân, phản đủ thứ — nổi giận dựng ngươc cả tóc vì kẻ má hồng..
Không phải vì ta yêu thương mà người đẹp bị vất vả, trôi nổi.
Bọn nghịch tặc bị Trời diệt tan hoang như bữa tiệc tàn.
Quét tan bọn Giặc Khăn Vàng nhanh như chớp, bình định Hắc Sơn,
Khóc Dzua xong Tướng Quân đi tìm Nàng…
o O o
“Khóc Dzua xong Tướng Quân đi tìm nàng..” Có thể câu thơ này tả chuyện xưa không được đúng lắm. Tướng Quân anh dũng đi tìm Nàng trước, ôm được Nàng về cất kỹ rồi Tướng Quân mới y mão. cân đai, kiếm kích, cờ quạt đến khóc Dzua có lẽ dễ tin hơn. Vả lại Dzua đã chết rồi, để Dzua nằm đó năm bẩy tháng cũng chẳng sao, Dzua không thể nào vì thế mà chết hơn được, còn việc đi tìm Nàng là việc cần làm ngay, làm liền tù tì tút suỵt.
Ðây là mấy câu thơ tả cảnh Tứớng Quân Ðầu Hàng hào hùng đi đón đàn bà:
Nhược
phi
Tráng
sĩ
toàn
sư
thắng
Tranh
đắc
nga
mi
thất
mã
hoàn.
Nga
mi
mã
thượng
truyền
hô
tiến,
Vân
hoàn
bất
chỉnh
kinh
hồn
định.
Lạp
cự
nghênh
lai
tại
chiến
trường,
Ðề
trang
mãn
diện
tàn
hồng
ấn.
Chuyên
trưng
tiêu
cổ
hướng
Tần
Xuyên,
Kim
Ngưu
đạo
thượng
xa
thiên
thặng.
Tà
Cốc
vân
thâm
khởi
họa
lâu,
Tán
Quan
nguyệt
lạc
khai
trang
kính.
Truyền
lai
tiêu
tức
mãn
giang
hương…
Dịch đại:
Nếu
chẳng
phải
quân
đội
của
Tráng
sĩ
toàn
thắng
Thì
làm
sao
giành
lại
được
gái
mày
ngài
đặt
trên
lưng
ngựa
trở
về.
Ðặt
Nàng
lên
ngựa,
hô
quân
thẳng
tiến,
Tóc
mây
bị
xô
lệch,
Nàng
định
thần
trở
lại.
Ðốt
đuốc
hoa
thành
thân
ngay
tại
chiến
trường.
Ngấn
lệ
còn
đọng
trên
khuôn
mặt.
Thổi
tiêu,
gióng
trống
tiến
về
Tần
Xuyên,
Nghìn
cỗ
xe
đi
trên
đường
Kim
Ngưu.
Ở
Tà
Cốc
mây
dàn
dựng
lên
lâu
đài
lộng
lẫy,
Ở
Tán
Quan
trăng
lặn
còn
đặt
đài
gương
trang
điểm.
Tin
tức
truyền
khắp
miền
quê
hương,
sông
nước…
o O o
Chuyện đời.. Có những chuyện đời giống nhau, có những chuyện đời hổng giống nhau. Bài thơ Lưu Lang Phố cho ta thấy đàn ông Tầu coi thường đàn bà Tầu, coi đàn bà Tầu như “nơ pa,” như không có ký-lô nào cả. Bài thơ “Viên Viên Khúc” cho ta thấy đàn ông Tầu coi đàn bà Tầu nặng như đá đeo, nặng hơn tổ quốc, nặng hơn dân tộc, nặng hơn bất cứ cái gì được coi là nặng trên cõi đời này.
Bạn có thể phân biệt thời gian — bỉ nhất thời, thử nhất thời — đàn ông Tầu đời Tam Quốc khác, đàn ông Tầu đời Minh Thanh khác. Có thể bạn nói có lý. Bởi vì dường như từ đời Minh Thanh — Thế kỷ 17 — trở lại đây đàn ông — chẳng phải chỉ đàn ông Tầu mà là đàn ông nói chung — càng ngày càng coi trọng đàn bà, con gái hơn.
Phải vậy chăng, không phải vậy chăng? Phải chăng càng ngày bộ lông mày của đàn bà đẹp càng có giá? Và phải chăng ta có thể nói Trần Viên Viên là nguyên nhân làm cho nước Ba Tầu bị ngoại nhân đô hộ cực kỳ khốn nan trong những hơn ba trăm mùa Táo Tầu?
Tiếng
trống
làng
xa
dồn
mặt
nước,
Tháng
Giêng,
quê
bạn,
hội
đêm
rằm.
Hương
đồng
tỉnh
giấc,
ta
ngồi
dậy,
Nhìn
ánh
trăng
xuân
đẹp
chỗ
nằm…
Em ơi… Bây giờ ở quê ta đang là Tháng Giêng cỏ non, mùa xuân, ngày hội.. Tháng Giêng ăn Tết ở nhà. Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè… Em buồn làm chi. Anh đưa em về sông Ðuống.. Ngày xưa cát trắng phẳng lì. Chúng ta đem về làm quà đôi tấm the đen. Anh sẽ mơ thấy lại mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên, những hội hè đình đám trên núi Thiên Thai, trong chùa Bút Tháp, anh nghe lại tiếng chuông chùa văng vẳng, tưởng như nhìn thấy những nàng môi cắn chỉ quết trầu, những cụ già phơ tóc trắng, những em sột soạt quần nâu..
Muà xuân anh đưa em về bên kia sông Ðuống, để nhớ từng khuôn mặt búp sen, những cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu tỏa nắng.. Ngày xưa.. Ngày anh còn trẻ.. Chúng ta làm chuyến đi này ngược hay xuôi dòng thời gian? Ngược hay xuôi cũng được. Ðêm rằm Tháng Giêng trăng đẹp quá chời. Ðêm nay Sen Hồ vào đám, có diễn tuồng. Anh đưa em sang đó Bói Tuồng. Em bói tuồng lần nào chưa? Em biết bói tuồng là gì không? Ðêm nay diễn tuồng Giang Tả Cầu Hôn..!
o O o
Tôi gửi bài viết này đến những người Việt đang sống ở quê người trên khắp thế giới.
Hoàng
Hải
Thủy
Mã
an
toàn:
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Ý kiến bạn đọc