Đang truy cập : 126
•Máy chủ tìm kiếm : 4
•Khách viếng thăm : 122
Hôm nay : 8508
Tháng hiện tại : 1080705
Tổng lượt truy cập : 76896083
Trong đời nghệ sĩ, một lần được thế vai diễn của thần tượng chắc chắn sẽ là kỷ niệm khó quên trong sự nghiệp hóa thân với hàng trăm số phận. Nghệ sĩ Trung Dân đã có những khoảnh khắc đáng nhớ.
SG Nguyễn Phương
Hồi đó, nghệ sĩ và soạn giả cải lương lãnh lương rất cao trong đoàn hát nhưng chúng tôi xài phung phí theo kiểu công tử miệt vườn, tiền vô ngập túi buổi tối, hôm sau là hết sạch bách, nhìn cách tiêu xài của nghệ sĩ, người ngoài tưởng nghệ sĩ giàu sang nhưng sự thật thì trọn đời họ cứ phải loay hoay trong cảnh nợ nầng túng thiếu.
ñồng tiền trong tay của người thương buôn hay ở các ngành nghề khác là đồng tiền biết sanh đẻ, tiền của trong tay của người thương buôn là đồng tiền nhứt bản vạn lợi. Người ta suy nghĩ, tính toán với số tiền vốn đó thì họ sẽ mua bán những gì hay làm cách chi để sanh ra thêm nhiều lợi nhuận.
ñồng tiền trong tay của soạn giả và nghệ sĩ là đồng tiền “đực”, không biết sanh đẻ mà lại dễ bị hao mòn, tiêu tán nhanh chóng khi mà chủ nhân của nó nổi hứng bất tử, tiêu xài thả “ga”, không biết thắng lại để khỏi mang nợ.
Cuộc sống lưu diễn, mỗi tuần lễ thay đổi một rạp hát, ở một địa phương khác giống như dân du mục nên nghệ sĩ tiêm nhiễm một lối sống ăn xổi ở thì, không nghĩ tới ngày mai. Và khi đến hát ở vùng nào, tỉnh nào, chúng tôi có chương trình “ăn nhậu” để biết mức sống và món ngon vật lạ của người địa phương, đồng thời tìm hiểu những chuyện hay tích lạ theo truyền thuyết của địa phương hoặc chuyện thật thương tâm đã xảy ra ở địa phương đó. Tâm hồn của soạn giả chỉ nghĩ đến văn chương, cốt chuyện, nhân vật và cảnh trí của những địa điểm mình đã trải qua chớ không nghĩ làm cách chi để sanh lợi nhiều hơn nữa như các nhà thương buôn.
Chuyến đi Huế lần này, chúng tôi hoạch định một chương trình đi thăm viếng các lăng tẩm. Đoàn hát mướn nhiều phòng ở khách sạn Hương Giang phía Nam Sông Hương nên muốn đi vào Nội Thành, chúng tôi thức dậy sớm, đi bộ qua Cầu Mới để đến bên Bắc Sông Hương. Buổi sáng nhiều sương mù, khi đi trên cầu, nhìn phía trái xa xa là cầu Bạch Hổ, chìm trong khóí sương mờ ảo, bên phải là Cầu Trường Tiền, nổi tiếng với sáu vòng khung sắt như những chiếc lược úp xuống, cầu Trường Tiền oai nghiêm soi bóng xuống dòng sông Hương. Cô Hồng, hướng dẫn viên du lịch do khách sạn Hương Giang giới thiệu, dẫn chúng tôi đi ăn bánh canh Hàn Thuyên, xong rồi mới dẫn vào cổng thành vô Đại Nội. Khi đi dạo trong thành Nội, chúng tôi đi ngang hai ngôi nhà, chỉ có mái che không có vách, chúng tôi thấy một nhà chứa 5 cây súng đồng lớn, nhà đối diện có 4 cây súng đồng… Tôi đứng lại chụp ảnh. Có một ông người Huế đi tới, tôi bước lại chà và hỏi qua về các khẩu súng thần công. Ông vui vẻ kể cho chúng tôi nghe sự tích của các khẩu súng thần công. Ông nói: Sau khi thắng Tây Sơn, vua Gia Long cho đúc 9 khẩu Thần Công này để kỷ niệm chiến thắng. Khởi công đúc từ 31 tháng 1 năm 1803 đến cuối tháng 1 năm 1804 mới xong. Mỗi khẩu súng được chạm trổ họa tiết thật đẹp, đặt trên giá súng bằng gổ lim, chạm hình rồng nổi. Vua đặt tên cho 9 khẩu súng là Xuân, Hạ, Thu, Đông và Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và phong chức làm Thần Oai Vô Địch Thượng Tướng Quân.
Ông bạn Huế cho biết thêm là súng Thần công tượng trưng cho quyền lực của nhà Vua nhưng rất linh ứng… Trong Bulletin des amis du vieux Hue số 2, kỳ tháng 4 – 5 năm 1914, giáo sư le Bris kể lại lời của một người bạn là ông Sogny như sau: Một hôm mặc dầu có người canh giữ nhưng có một đứa trẻ đến gần súng thần công, leo lên đưa đầu nhìn vào họng súng, bất ngờ đứa trẻ bị hút vào, cái đầu lọt vô trước, rồi đứa bé mất biệt. Chuyện này được nhiều gia đình trong Nội Thành nhắc nhở để răn dạy những đứa trẻ không vâng lời cha mẹ, không kính trọng thần súng.
Tôi hỏi: Thiệt vậy sao? Tôi bước đến nhìn vô họng súng.
Hút anh này vô luôn đi ông thần công! Hoa Phượng vừa nói vừa xô nhẹ tôi chúi tới trước. Ông kể chuyện cụt hứng, bỏ đi thẳng ra cửa Ngọ Môn.
Thi sĩ Kiên Giang cười hề hà: “Thôi, tụi mình kéo nhau đi viếng lăng Minh Mạng!”
Cô Hồng hướng dẫn lên xe đi. Đến lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng) khi đi qua Bi ñình, sau ñại Hồng Môn là sân rộng có hai hàng tượng đá quan viên và voi ngựa, chúng tôi chụp ảnh chung với các tượng đá quan viên, Kiên Giang thấy mấy con bò đang ăn cỏ gần đó, anh ta chép miệng than: “Trâu bò cũng muốn thay rồng chầu hổ phục hay sao mà đến ñại Hồng Môn nầy nhơi cỏ?”
Và tức cảnh sanh tình, Kiên Giang đã đẻ ra một bài thơ, trong đó có các câu thơ như sau:
ñến nơi rồi Huế đẹp Huế thơ
Núi Ngự trần truồng phơi bồng đảo
Dòng sông Hương ngủ say đêm diễm ảo
Con đò khuya lơ lững giữa vời
Cô gái Huế tóc dài nghiêng nón nhỏ
Lời giao duyên úp mở giọng Liêu Trai
Cố ñô ơi, hãy thao thức suốt đêm dài
Nghe xương cốt cựa mình trong đáy mộ.
Một thời đại mấy triều vua sụp đổ
Còn sót gì trong dạ đất nâu
Còn sót gì trong đáy mộ sâu
Còn đâu tiếng tung hô vạn tuế
Thành nội xưa nơi hội hè trùng dế
Dấu chân bò dẫm nát sân rồng
Chuông Từ ñàm tan biến giữa hư không
Chùa Thiên Mụ vút cao soi bóng lạnh
Soạn giả Thiếu Linh cũng đi theo đoàn Thanh Minh Thanh Nga trong chuyến lưu diễn ở Huế. Anh ngủ đò trên sông Hương, đò xuôi theo dòng sông êm đềm, trong không gian cô tịch, những điệu hò câu hát vẳng trên sông đã gợi cho Thiếu Linh một hứng cảm để viết một tuồng dã sử về đời vua Lê Long ñĩnh.
Câu hò trên sông hương đó như sau:
Chợ ñông Ba tiếng gà eo óc
Bến chùa Thọ Lộc, tiếng trống sang canh
Giữa sông Hương gợn sóng khuynh thành
ñêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng.
từ câu hò “Bến chùa Thọ Lộc, tiếng trống sang canh”, bốn tiếng Tiếng Trống Sang Canh trở thành tựa tuồng của Thiếu Linh và Thu An trên sân khấu đoàn Thủ ñô – Ba Bản khi gánh hát nầy khai trương bảng hiệu tại rạp Quốc Tế Saigon. Chúng tôi thích dạo trong lăng Tự ñức tức Khiêm Lăng vì đó là một lăng tẩm đồ sộ, tọa lạc trong một khung cảnh thiên nhiên vừa hùng tráng vừa u tịch thơ mộng. Khiêm Lăng cách thành phố Huế độ tám cây số, đường dẫn đến Khiêm Lăng được tráng nhựa nên đi xe hơi đến trước cửa lăng thật là thuận tiện.
Chúng tôi vào thăm lăng bằng cửa Vụ Khiêm, qua khỏi cửa, bước xuống tầng cấp, theo con đường lát gạch đến Hòa Khiêm rồi đến xem Bi đình. Sau đó chúng tôi đi dạo theo bờ hồ Lưu Khiêm. Hồ rộng, chung quanh hồ xây bờ gạch và lan can cao độ hơn thước, trong hồ có trồng sen, nước trong xanh thật đẹp. Chúng tôi bắt chuyện với một người hướng dẫn du lịch, cô ta nói nhanh như tiếng chim kêu, phần cô nói có nhiều thổ ngữ nên chúng tôi nghe tiếng được tiếng mất. Tuy nhiên chúng tôi cũng được biết là ban đầu khi khởi công xây lăng, vua Tự ñức đặt tên là “vạn niên cơ”, ngầm ý nói là Cơ Nghiệp Ngàn Năm, nhưng sau cuộc nổi loạn của giặc Chày Vôi năm 1866, vua Tự ñức đổi tên là Khiêm Lăng cho bớt vẻ kiêu ngạo và mong làm dịu lòng căm phẫn của dân phu. Cô gái hướng dẫn du lịch nhắc tới câu ca dao:
Vạn niên là vạn niên nào?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
Hai câu thơ gợi ý cho chúng tôi nhớ đến chuyện bên Tàu, vua Tần Thủy Hoàng cho xây Vạn Lý Trường Thành với hàng triệu xác dân đen bị vùi vập vì phải chịu khổ sai lao khổ để xây đấp trường thành, nhưng nếu nhìn sự việc với một khía cạnh khác thì sau cả ngàn năm Vạn Lý Trường Thành trở thành một niềm tự hào của người Trung Quốc, một danh lam thắng cảnh thu hút hàng triệu triệu du khách khắp bốn biển năm châu. Khiêm Lăng cả trăm năm sau cũng trở thành một di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam mà trong mấy thập niên sau nầy cũng có hàng triệu du khách trong nước và người nước ngoài đến viếng thăm. Nhã nhạc cung đình Huế cũng được Hội UNESCO công nhận là một di sản văn hóa quốc tế về âm nhạc.
Cảnh trí trong Khiêm Lăng, gợi cảm giác u tịch và hoài cổ. Chúng tôi chụp hình lưu niệm trong nhà Bia, bên bờ hồ Lưu Khiêm và, trong lòng tự nghĩ là khi còn sống vua Tự Đức cho xây lăng tẩm nầy, khi đó vua vẫn còn mạnh khỏe, vậy mà đã nghĩ đến chuyện khi chết cũng cần những cung diện đền đài tráng lệ, trong lúc hoàn cảnh đất nước đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, giặc Pháp mỗi ngày không ngừng xâm lấn biên cương, vậy mà nhà vua và cả triều thần văn võ cùng các quan đại thần còn có ngày giờ yên ẩm với nhau, còn có tâm trí mà bỏ vào công việc xây dựng Khiêm Lăng, phải chịu hao tài tốn của không biết là bao nhiêu. Giặc Chày Vôi phải chăng không chỉ mang một ý nghĩa là phản đối hành vi bạo ngược của viên đốc công Biện Chất mà còn là một cảnh tỉnh đối với vua Tự Đức?
Tôi lại chợt nhớ hai câu ca dao mà các bà mẹ ở miền Nam ru con thường hát:
Chiều chiều bắt két nhổ lông
Két kêu bớ Tự sao mầy bất nhơn (bớ Tự đây là Tự Đức)
Đó là nhắc chuyện vua Tự Đức đã cho giết chết anh ruột của mình là Hồng Bảo An Phong Công vì nghi anh âm mưu đảo chánh cướp ngôi vua. Giặc Chày Vôi có sự đồng tình của công chúa Thể Cúc, con gái của Tùng Thiện Vương cùng với chồng là ñoàn Hữu Trưng mưu phế vua Tự ñức để tôn Ưng ñạo tức con trưởng của An Phong Công Hồng Bảo lên ngôi vua.
Chúng tôi nghỉ ngơi tránh nắng trong nhà mát thủy tạ bên hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì, soạn giả Hà Triều tò vè theo bên cô Hồng, hướng dẫn viên du lịch để học hỏi tiếng Huế. Anh ta đinh ninh là tiếng Huế chỉ đặc biệt có mấy tiếng thông dụng Tê, Mô, Răng, Rứa. Cô Hồng nghe Hà Triều nhại nói theo giọng Huế, cô cười rũ ra và cô đố chúng tôi nghe và hiểu một câu nói của cô:
“Thưa mấy en, bọ tui vào rừng rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nó biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm. Bọ tui mờng rứa thê! Chừ mạ tui cúng con gà, mấy en qua chút chò bui.”
Bây giờ đến lượt chúng tôi rũ ra cười, cô nói giọng nhỏ nhẽ dễ thương nhưng có mấy tiếng: bọ tui chộ con cọt, rứa mà nó biết ra răng… Chúng tôi chưa đoán ra câu đó nghĩa gì thì cô nói tiếp: Răng mà mấy en dòm tui, tui dị òm!
Cái tiếng “dị òm” ở trong Nam có nghĩa là kỳ cục, nhưng cô Hồng nói “Dị òm” là “thẹn quá”. Bọ tui chộ con cọt là bố tôi gặp con cọp…
Tôi rủ Kiên Giang đi qua nhà Thủy Tạ đối diện với nhà thủy tạ nầy, cũng ở ven bờ Tiểu Khiêm Trì để bàn việc hợp soạn một vở tuồng dã sử nhân chuyến đi Huế thăm viếng lăng tẩm nầy, nhưng trước khi đi, Kiên Giang lại nói với cô Hồng: “O ơi, chớ tin hén, hén nói điêu đấy.”
Cô Hồng híp mắt cười ngỏn ngoẻn, nói lí nhí: “Tui nói với hén rồi. En ơi, chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn. En đoảng, en vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nôm, thì en lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ!” Cô gái Huế, tóc xõa ngang vai, mặt trái xoan, đôi má và môi đều phơn phớt hồng, nụ cười duyên dáng mà giọng nói lại nghe rất dễ thương, anh chàng Hà Triều quả tình say tít thò lò nhưng cũng biết rằng chim trời khó bắt, nên đành phải ngồi gợi chuyện cho vui trong lúc lưu lạc tha phương.
Tôi, Kiên Giang và Hoa Phượng bỏ mặc cho Hà Triều ngồi tán hươu tán vượn với cô gái, chúng tôi đến chỗ khác, bàn bạc chuyện viết tuồng. Tôi gợi nhớ chuyện Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, khi xây Vạn Lý Trường Thành, có chuyện nàng Vạn Hỷ Lương khóc tìm mộ chồng, nước mắt của Vạn Hỷ Lương làm xiêu thành đổ vách, lòi ra thể xác của chồng nàng bị vùi dưới chân thành Vạn Lý. Chuyện xây lăng Vạn Niên Cơ, tuy chỉ có ba ngàn dân phu nhưng cũng có khối người mất mạng khi lăn đá, quết vôi nên chuyện cô công chúa Thể Cúc và phu quân ñoàn Hữu Trưng cũng có thể tạo thành một trang tình sử không thiếu phần ai oán não nùng. Kiên Giang đề tựa là Giã Từ Rừng Núi Cũ cho chuyện mối tình Vạn Niên Cơ đó.
Hoa Phượng thì không muốn viết những gì liên quan tới dã sử hay chính sử mà Hoa Phượng muốn nhân chuyện xây dựng Hoàng Lăng để nói lên tâm tình phản kháng của chính bản thân của anh ta.
Tôi nói: “Lần trước Hà Triều ngủ quên trong Hồ Tịnh Tâm trong Nội Thành, anh ta mơ muốn thấy Hoàng Hậu hoặc các phi tần, cung nữ nên ý muốn viết một vở tuồng Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng. Bây giờ anh muốn phản kháng việc xây lăng tẩm thì anh sẽ viết gì?”
Hoa Phượng nói: “Tôi với Hà Triều cùng hợp soạn đã lâu. Nay tôi cũng theo ý kiến ban đầu của Hà Triều, chúng tôi sẽ viết một vở tuồng cũng để tựa là Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng. Nhưng nhân vật chánh trong tuồng không phải là một kẻ lảng tử mơ đến Hoàng Hậu hay Phi tần mà là một kẻ nghèo không một tấc đất để cắm dùi, nhưng khi vợ của hắn chết thì hắn mang xác vợ của hắn vô hoàng lăng để chôn, hy vọng linh hồn của các vì vua chúa sẽ xem linh hồn của vợ hắn ngang vai ngang vế. Nội dung đó mang một ý niệm phản kháng của việc bất công trong xã hội phong kiến ngày xưa.”
Hồi đó nghệ sĩ Thành ñược đóng vai y sĩ Sa Tần, Hữu Phước đóng vai tên tướng cướp Vi Hạc Linh, Thanh Nga đóng vai người vợ bất hạnh Lạc Thy Kim.
Trong sổ tay của tôi ghi về các sự kiện văn học và hồi ký cải lương, ghi chép về tuồng Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng sau chuyến lưu diễn ở Huế năm 1962, có đoạn ghi như sau:
Vi Hạc Linh: (mang xác vợ trên vai, bước vào giữa Hoàng Lăng, đặt xác vợ trước một ngôi mộ của một vì vua) “Lạc Thy Kim, tất cả những vua chúa đều an nghĩ nơi nầy. Nay, em cũng nghĩ tại đây. Anh mong rằng trong chốn hư vô, họ sẽ tiếp đãi em ngang hàng với họ.
Sa Tần: (trong hậu trường) Gã kia! Hãy đặt nhẹ gót chân…
Hạc Linh: Ai?
Sa Tần: (hậu trường) Hãy dịu dàng tiếng nói! Kẻo người nay làm kinh động giấc người xưa…
Hạc Linh: Nhưng ngươi là ai? (tuốt gươm ra) Ở đâu?
Sa Tần: (Từ sau ngôi mộ bước ra) Tra gươm vào vỏ đi. Ta xin mượn danh của tất cả muôn loài trên mặt đất này mà thề rằng: Ta không hề cản trở bất cứ một ý định gì của ngươi cả.
Hạc Linh: Ngươi là người hay là oan hồn của một vì tiên đế?
Sa Tần: Ta là người, một y sĩ mà cũng là một tội nhân, đang bị sự truy nã của nhà vua, nên đêm nay tạm ẩn nơi hoàng lăng nầy, đợi sáng sẽ lên đường. Ngươi yên lòng rồi chớ?
Hạc Linh: Y sĩ! Ngươi ở trong tình thế khốn quẫn, nhưng ta còn khốn đốn hơn ngươi. ñó! Xác của vợ ta đó! Lạc Thy Kim, người vợ yêu quý của ta, vừa mệnh một sau một cơn sốt bất thường trong chốc lát. Bình sanh, chúng ta ở trong một cái chòi lợp bằng lá mía. Vợ ta đi dệt mướn cho một kẻ láng giềng. Ta làm công cho một trại chủ. Ngươi trông kìa! Phía đông là thành quách huy hoàng tráng lệ. Thịt ngọc da ngà. Rộn ràng hương sắc. Ở đó hoàng đế Sĩ Tước Hoa đang trị vì. Phía Tây là những túp lều xiêu vẹo, rúc mình trong ruộng mía như bọn lạc đà còm cõi chúi đầu tìm cỏ trên sa mạc khô khan… Chính vợ chồng ta nương ngụ ở phía Tây xơ xác đó.
Sa Tần: Và cũng chính nơi đó vợ ngươi từ trần.
Hạc Linh: Phải! Một người chết, thiên hạ xây nên một nấm mộ nguy nga rộng lớn như cung điện họ đang đường bệ trị vì. Còn chôn theo cả trăm cung tần trẻ đẹp và những tên nô lệ đáng thương. Còn một người chết không có tấc đất để gởi xương, không một đồng xu để ướp xác, không một miếng ván đóng hòm, không một manh chiếu để bó thây… Hỡi bọn Vua, quan đang ngả ngớn trong những đêm hoan lạc không cùng! Ta trả thù chúng bây bằng cách đem xác vợ ta chôn ở hoàng lăng nầy thử coi ai làm gì ta cho biết…
ñến nay đã hơn năm mươi năm qua, một thời gian quá dài để tưởng như những kỷ niệm không còn rõ nét trong tâm tưởng khi mình hồi tưởng lại những chuyến lưu diễn ở Huế, không ngờ khi nhắc đến tên Hà Triều, Hoa Phượng, Kiên Giang, Thiếu Linh là tôi bỗng nhớ lại không sót một mảy may nào về tánh tình của từng bạn, tôi nhớ cả giọng nói, điệu cười và những chuyện nghịch phá như kiểu Hoa Phượng kể chuyện vui, làm động chạm tới vị lãnh chúa miền Trung, khiến cho chúng tôi đang khuya phải trốn chạy về Saigon. Và cũng từ chuyện nhớ các bạn mà tôi tự hiểu là mình cũng giống như các bạn, mình vẫn không bỏ được cái cá tánh suy nghĩ những chuyện viển vông hơn là nghĩ đến những chuyện liên quan tới cuộc sống hiện tại.
Nếu còn được tái hiện một chuyến lưu diễn ở Huế, tôi sẽ hạnh phúc vô cùng.
Soạn giả Nguyễn Phương
Tháng 3/2017
chuyến lưu, huế năm, 1962 đã, để lại, trong lòng, tôi nhiều, kỷ niệm, tên soạn, giả lãng, tử lang, thang hà, triều và, hoa phượng, soạn giả, thiếu linh, thi sĩ, kiêm kiên, giang các, bạn đó, đã về, cõi vĩnh, hằng còn, tôi đã, chín mươi, lăm tuổi, nay sống, nơi phương, trời mông, lệ an, tuyệt mù, tuyết trắng, mỗi lần, tưởng nhớ, quê hương, là tôi, nhớ mãi, những ngày, vui khi
Mã an toàn:
Trong đời nghệ sĩ, một lần được thế vai diễn của thần tượng chắc chắn sẽ là kỷ niệm khó quên trong sự nghiệp hóa thân với hàng trăm số phận. Nghệ sĩ Trung Dân đã có những khoảnh khắc đáng nhớ.
Ý kiến bạn đọc