Đang
truy
cập
:
228
•Máy chủ tìm kiếm : 95
•Khách viếng thăm : 133
Hôm
nay
:
7135
Tháng
hiện
tại
:
968148
Tổng
lượt
truy
cập
:
101250677
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Hữu Phước & Thanh Nga
Tôi
thích
giọng
ca
vọng
cổ
của
Hữu
Phước,
trong
thời
gian
cùng
với
Hữu
Phước
cộng
tác
với
Đoàn
Thanh
Minh-Thanh
Nga,
khi
nào
Hữu
Phước
có
đóng
một
vai
nào
đó
là
tôi
có
mặt
trong
khán
phòng
để
xem
hát.
Khi
không
còn
dịp
cộng
tác
với
nhau
nữa,
tôi
vẫn
tìm
mua
dĩa
vọng
cổ
của
Hữu
Phước.
Những
lúc
tôi
viết
tuồng
(Đôi
Mắt
Người
Xưa,
Bóng
Chim
Tăm
Cá,
Hai
Hình
Ảnh
Một
Cuộc
Đời,
Mộng
Đẹp
Nửa
Đời
Hoa),
tôi
thường
đến
nhà
Hữu
Phước
ở
vài
ngày,
viết
đoạn
nào
đắc
ý
nhất,
nhờ
nhạc
sĩ
Ba
Thu,
Ba
Túy
đờn,
Hữu
Phước
ca
cho
tôi
nghe
thử.
Tôi
nhắc
những
kỷ
niệm
này
để
tỏ
lòng
cám
ơn
Hữu
Phước,
cám
ơn
nhạc
sĩ
Ba
Thu,
Ba
Túy,
những
người
đã
giúp
tôi
tìm
hiểu
một
cách
sâu
sắc
cái
hay,
cái
đẹp
của
cổ
nhạc
miền
Nam.
Những
kỷ
niệm
thân
thương
với
Hữu
Phước
vẫn
mãi
mãi
ngời
sáng
trong
lòng
tôi.
Hữu
Phước
sanh
năm
1932,
tại
quận
Châu
Thành,
tỉnh
Sóc
Trăng,
mất
ngày
21
tháng
2
năm
1997
tại
Paris,
Pháp.
Nghệ
sĩ
Hữu
Phước,
là
một
trong
ba
nghệ
sĩ
lớn
của
cải
lương
trong
các
thập
niên
60,
70,
80,
đã
có
nhiều
đóng
góp
quan
trọng
trong
việc
nâng
cao
nghệ
thuật
ca
vọng
cổ
và
góp
phần
phát
triển
nghệ
thuật
sân
khấu
cải
lương.
Hữu
Phước
tên
thật
là
Henri
Trần
Quan,
bắt
đầu
khởi
nghiệp
cầm
ca
từ
năm
1954,
được
nhạc
sĩ
Mười
Lương
(đàn
vĩ
cầm)
dạy
ca.
Nhạc
sĩ
Mười
Lương,
tên
thật
là
Trần
Hữu
Lương,
chồng
của
nữ
danh
ca
Năm
Cần
Thơ,
ông
đặt
cho
Henry
Trần
Quan
nghệ
danh
là
Hữu
Phước.
Ông
dẫn
dắt
Hữu
Phước
đến
quán
Họa
Mi
của
cô
Năm
Cần
Thơ,
thuộc
khu
Đại
Thế
Giới
của
ông
Bảy
Viễn,
Chợ
Lớn,
ca
vọng
cổ
và
các
bài
bản
lớn:
3
Nam,
4
Oán,
6
Bắc,
7
Bài.
Dàn
cổ
nhạc
có
các
nhạc
sĩ:
Sáu
Tửng,
Ba
Khuê,
Hai
Thơm
và
Mười
Lương.
Ca
sĩ,
ngoài
cô
Năm
Cần
Thơ
và
Hữu
Phước,
còn
có
các
cô
Kim
Chi,
Kim
Hà
(con
gái
của
cô
Năm
Cần
Thơ),
Bạch
Huệ,
(con
gái
của
nhạc
sĩ
Sáu
Tửng).
Hữu
Phước
lúc
đó
ca
vọng
cổ
tuy
ngọt
ngào
nhưng
chưa
có
những
nét
đặc
sắc
riêng
như
sau
này,
nên
thường
được
khách
của
quán
ca
nhạc
Họa
Mi
yêu
cầu
ca
bản
Nam
Xuân,
“Giữ
Lời
Son
Sắc”
của
Sáu
Hải
(bài
ca
đó
có
câu
khởi
đầu:
Thương
thân
nhàn,
trở
về
Nam
phương.
Để
cho
én
ly
hương,
Tiếng
gọi
đàn
thê
lương).
Bài
Nam
Xuân
này
là
bài
ca
mẫu
mực
thường
được
các
lò
cổ
nhạc
dùng
để
đào
luyện
căn
bản
ca
cho
các
học
trò
của
mình.
Với
bài
Nam
Xuân
này,
bằng
một
giọng
ca
buồn
mênh
mang,
Hữu
Phước
đã
ru
hồn
biết
bao
nhiêu
khách
mộ
điệu
và
đã
làm
cho
quán
ca
nhạc
Họa
Mi
thu
hút
khách
đông
nghẹt
hằng
đêm.
Năm
1955,
Hữu
Phước
thu
dĩa
nhạc
(78
tours)
cho
hãng
dĩa
của
ông
Bầu
Ba
Bản,
hãng
Hoành
Sơn,
bài
vọng
cổ
Mặt
Trận
Ái
Tình
của
soạn
giả
Thu
An.
Dĩa
Tình
Huynh
Đệ
và
bộ
dĩa
tuồng
Tĩnh
Mộng
của
Thu
An
đã
làm
tên
tuổi
danh
ca
Hữu
Phước
nổi
như
cồn.
Danh
vị
trong
làng
dĩa
nhựa
của
Hữu
Phước
ngày
càng
lên
cao,
vượt
qua
các
danh
ca
đương
thời,
có
thể
nói
là
sóng
đôi
với
vua
vọng
cổ
Út
Trà
Ôn,
nhờ
vào
các
bài
vọng
cổ:
Nắm
Xương
Tàn
của
Quy
Sắc,
bản
Đội
Gạo
Đường
Xa
của
Kiên
Giang
Hà
Huy
Hà,
bản
Viếng
Tháp
Chàm
của
Quy
Sắc
(Hãng
dĩa
Lam
Sơn).
Qua
làn
sóng
phát
thanh
Pháp-Á,
đài
Sài
Gòn,
đài
Quân
Đội,
tiếng
ca
ngọt
ngào
quyến
rũ
của
Hữu
Phước
đã
chinh
phục
thính
giả
từ
thành
thị
đến
thôn
quê.
Vì
vậy,
trong
hơn
25
năm
liên
tục,
các
hãng
dĩa
Asia,
Hồng
Hoa,
Việt
Nam,
Continental,
Sơn
Ca,
Lam
Sơn,
Hoành
Sơn,
Việt
Hải,
Capitol,
Quê
Hương
tranh
nhau
mời
Hữu
Phước
với
một
số
tiền
giao
kèo
kỷ
lục
vì
giọng
ca
vàng
của
anh.
Năm
1955,
đoàn
cải
lương
Kim
Thoa
sau
khi
bị
liệng
lựu
đạn
tại
rạp
Nguyễn
Văn
Hảo,
kéo
về
rạp
Tân
Định
để
cũng
cố
đội
ngũ,
nhân
dịp
này,
soạn
giả
Nguyễn
Huỳnh
mời
Hữu
Phước
và
hề
Minh.
Vì
mới
đến
chưa
có
vai
tuồng,
Hữu
Phước
và
Hề
Minh
ca
sáu
câu
vọng
cổ
ngoài
màn
nhung
mỗi
khi
chờ
bên
trong
dọn
thay
cảnh
trí,
khán
giả
đã
vỗ
tay
khen
nồng
nhiệt
hai
danh
ca
trẻ
này.
Vì
vậy,
khi
tập
tuồng
Công
Chúa
Cá,
Phò
Mã
Cùi
của
soạn
giả
Nguyễn
Huỳnh,
đào
chánh
Ngọc
Lợi
yêu
cầu
lấy
vai
tuồng
Phò
mã,
trước
đây
đã
trao
cho
kép
Văn
Sa,
nay
trao
cho
Hữu
Phước
thủ
diễn
chỉ
vì
giọng
ca
của
Hữu
Phước.
Lần
đầu
tiên
hát
trên
sân
khấu
đại
ban,
Hữu
Phước
đã
được
đóng
vai
chánh,
ngang
hàng
với
kép
Văn
Lang
(kép
chánh,
đẹp
trai
của
đoàn
Việt
Kịch
Năm
Châu,
đoàn
Phước
Chung
và
đoàn
Kim
Thoa).
Lúc
này
lương
đêm
của
Hữu
Phước
là
200
đồng,
giao
kèo
một
năm
là
20.000
đồng.
Đến
tháng
8
năm
1955,
đoàn
Kim
Thoa
rã
gánh
tại
tỉnh
Gò
Công,
Hữu
Phước
thất
nghiệp
trở
về
Sài
Gòn,
đi
ca
thu
thanh
cho
các
hãng
dĩa
và
đài
phát
thanh
để
sống
chờ
thời.
Lúc
này
anh
ở
vùng
Hòa
Hưng.
Vợ
anh
tên
Thiện,
con
gái
đầu
lòng
tên
Trần
Thị
Ngọc
Ánh.
Ngọc
Ánh
xuất
hiện
lần
đầu
tiên
trên
sân
khấu
Thanh
Minh-Thanh
Nga
năm
1965,
lúc
mới
6
tuổi
trong
tuồng
Đôi
Mắt
Người
Xưa
của
Nguyễn
Phương,
vai
Lệ,
con
gái
của
bác
sĩ
Vũ
(Hữu
Phước)
và
Hiền
(Phương
Ánh).
Vai
Lệ
màn
hai,
do
nghệ
sĩ
Thanh
Nga
đóng.
Lúc
bấy
giờ,
Kiên
Giang
Hà
Huy
Hà
đề
nghị
Hữu
Phước
lấy
chữ
chót
của
tên
hai
nữ
danh
ca
Thanh
Hương
và
Út
Bạch
Lan
đặt
nghệ
danh
cho
Ngọc
Ánh
là
Hương
Lan.
Năm
1956,
Hữu
Phước
gia
nhập
gánh
Kim
Chưởng-Thanh
Hương,
đóng
kép
ca,
kép
nhì
sau
Văn
Chung
(chồng
cô
Thanh
Hương
và
hiện
nổi
danh
là
Hề
Văn
Chung).
Thời
gian
này,
Hữu
Phước
xem
như
thời
gian
học
diễn
xuất
và
luyện
giọng
ca.
Đến
đầu
năm
1957,
Đoàn
Kim
Chưởng-Thanh
Hương
rã,
Hữu
Phước
về
đầu
quân
cho
gánh
hát
Thanh
Minh
hát
thường
trực
tại
rạp
Thành
Xương,
đường
Yersin,
quận
Nhì.
Nhân
dịp
kép
chánh
Út
Nhị
bỏ
tuồng,
bà
Bầu
Thơ
giao
cho
Hữu
Phước
thủ
vai
chánh
trong
tuồng
Đứa
Con
Hai
Giòng
Máu
của
soạn
giả
Lê
Khanh,
đóng
chung
với
Út
Bạch
Lan,
Hoàng
Giang,
Kim
Quang,
Ngọc
Chúng.
Hữu
Phước
thành
công
ngay
trong
vai
chánh
đầu
tiên.
Từ
đó
đến
năm
1970,
trên
sân
khấu
Thanh
Minh-Thanh
Nga,
anh
đóng
nhiều
tuồng
dã
sử
Việt
Nam,
tuồng
xã
hội,
và
anh
luyện
giọng
ca
ngày
càng
sắc
sảo,
có
đường
nét
riêng
biệt
của
một
Hữu
Phước
mà
đệ
nhất
danh
ca
đương
thời
Út
Trà
Ôn
cũng
không
thể
làm
lu
mờ
anh
được,
dù
hai
người
đang
hát
chung
trên
một
sân
khấu,
hát
cùng
một
tuồng.
Tôi
còn
nhớ
một
kỷ
niệm
sâu
sắc
với
Hữu
Phước.
Năm
1962,
tới
tours
tập
tuồng
của
tôi,
(sau
vở
Tình
Tráng
Sĩ
của
Mộc
Linh),
tôi
tập
cho
đoàn
hát
vở
tuồng
Người
Về
Từ
Cửa
Biển.
Trong
tuồng
Út
Trà
Ôn
thủ
vai
người
anh,
bị
kẻ
thù
(Việt
Hùng
đóng),
cầm
tù
trên
một
hoang
đảo.
Người
em
(do
Hữu
Phước
đóng)
tìm
cách
cứu
anh,
trên
đường
tìm
đến
hoang
đảo,
đã
tình
cờ
gặp
và
yêu
cô
gái
làng
chài
trên
bờ
biển
đối
diện
với
đảo
hoang.
Cô
gái
chính
là
em
của
tên
tướng
cướp
(Việt
Hùng)
cô
thường
giúp
cho
anh
chàng
bị
anh
mình
giam
(Út
Trà
Ôn),
vì
vậy
mà
nảy
sanh
mối
tình
tay
ba,
giữa
cô
gái
và
hai
anh
em
(Út
Trà
Ôn
và
Hữu
Phước).
Đến
khi
hai
anh
em
biết
ra
là
đã
cùng
yêu
một
cô
gái,
em
của
kẻ
thù,
trong
tình
huống
này
có
nhiều
lớp
ca
vọng
cổ
rất
xúc
động.
Trước
khi
tôi
phân
vai
tuồng
cho
diễn
viên,
Hữu
Phước
mời
tôi
đến
nhà
“Ăn
Giỗ”
và
dặn
nhớ
đem
theo
cuốn
tuồng
sắp
tập.
Hữu
Phước
muốn
bàn
với
tôi
sửa
những
câu
vọng
cổ
trong
vai
của
anh
cho
hợp
với
phong
cách
ca
của
anh,
nhưng
sợ
người
ta
dị
nghị
nên
mới
nói
là
mời
tôi
đi
ăn
giỗ.
Bữa
đó
có
hai
nhạc
sĩ
Ba
Thu
và
Ba
Túy,
hai
nhạc
sĩ
này
đàn
trong
dàn
cổ
nhạc
của
đoàn
Thanh
Minh-Thanh
Nga.
Tôi
phân
tách
giọng
ca
của
anh
Út
Trà
Ôn
và
giọng
ca
của
Hữu
Phước:
Giọng
ca
của
anh
Út
Trà
Ôn
rất
khỏe,
vang
lộng.
Những
câu
vô
vọng
cổ,
nếu
viết
theo
song
thất
lục
bát
hay
theo
thể
thơ
mới,
anh
Út
Trà
Ôn
sẽ
ca
rất
ngọt,
vô
vọng
cổ
rất
mùi.
Dứt
câu
2,
anh
ca
chữ
“Xang”,
giọng
anh
ngân
xa,
đổ
hột
như
tiếng
đại
hồng
chung
vang
vang
trong
một
đêm
yên
tĩnh.
Hữu
Phước
hơi
mỏng
hơn,
nhưng
thật
là
ngọt,
thật
rõ
ràng,
âm
sắc
đẹp.
Hữu
Phước
có
biệt
tài
sắp
chữ
ca,
làm
nổi
bậc
từng
ý,
từng
lời,
nên
tôi
có
ý
là
nếu
viết
mỗi
khung
nhạc
trong
câu
vọng
cổ
cho
anh
Út
Trà
Ôn
ca
thì
từ
6
đến
8
chữ
(thông
thường
Viễn
Châu
vẫn
viết
bằng
ấy
số
chữ
cho
anh
Út
ca),
viết
cho
Hữu
Phước
ca
thì
từ
8
đến
12
chữ
trong
một
khung
nhạc.
Nếu
viết
cho
anh
Út
ca
câu
1,
câu
2
thì
Hữu
Phước
ca
câu
5,
câu
6,
khi
dứt
xề,
thay
vì
viết
ba
chữ
“sắc,
không,
huyền”
thì
tôi
viết
chữ
“sắc,
nặng,
huyền”
(mắt
lệ
sầu
hay
nổi
hận
lòng).
Tôi
lấy
tuồng
ra,
chỉ
các
câu
vọng
cổ
mà
tôi
viết
cho
anh
Út
Trà
Ôn
và
Hữu
Phước.
Hữu
Phước
ca
thử,
thêm
hoặc
bớt
một
vài
chữ
trong
các
khung
nhạc.
Khi
tập
tuồng,
Hữu
Phước
ca
chập
chờn
giống
như
câu
ca
nhiều
chữ
quá,
ca
không
kịp
với
nhịp
đờn;
bà
Bầu
Thơ
kêu
tôi
ra,
nói
riêng:
Anh
Ba,
anh
coi
lại
mấy
câu
vọng
cổ
của
Hữu
Phước,
có
phải
nhiều
chữ
quá
không?
Tôi
nói:
Chị
cứ
yên
tâm,
nó
biểu
tôi
viết
như
vậy
đó.
Nó
có
dượt
ở
nhà
rồi,
không
sao
đâu.
Đêm
khai
trương
tuồng
Người
Về
Từ
Cửa
Biển,
tôi
không
yên
tâm
nên
khi
Hữu
Phước
sắp
ca
vọng
cổ,
tôi
đến
đứng
bên
cánh
gà,
nhìn
ra
canh
chừng.
Bà
Bầu
Thơ,
các
diễn
viên
trong
đoàn
cũng
thấp
thỏm
lo
cho
Hữu
Phước.
Anh
Mười
Út
vô
vọng
cổ,
khán
giả
vỗ
tay
cuồng
nhiệt...
Đến
lượt
Hữu
Phước...
Hữu
Phước
ngâm
thơ
Tao
Đàn,
gác
vô
vọng
cổ,
lời
thơ
ngâm
giọng
nam
âm
sắc
rõ
ràng
nhưng
đậm
chất
bi
ai,
nghe
sâu
lắng
mượt
mà.
Cả
khán
phòng
lặng
im,
tưởng
chừng
mọi
người
nuốt
từng
lời
từng
chữ
của
một
giọng
ngâm
ngọt
như
mật,
êm
như
nhung
như
tơ.
Đến
chữ
“Hò”
vô
vọng
cổ,
Hữu
Phước
vuốt
nhẹ,
tiếng
ca
như
quyện
chặt
vào
tiếng
đờn,
nghe
thật
êm,
thật
mùi,
khán
giả
như
chợt
bừng
tỉnh,
vỗ
tay
như
pháo
nổ
đêm
giao
thừa.
Trong
lòng
câu
ca,
làn
hơi
dài
được
Hữu
Phước
vận
dụng
chạy
lả
lướt
với
tốc
độ
dồn
chữ,
từng
đợt,
từng
đợt
như
những
làn
sóng,
triền
miên
xô
đuổi
nhau
tung
bọt
trắng
lên
bờ
biển:
một
kỹ
thuật
ca
như
bất
chấp
nhịp
trường
canh,
nhiều
phen
làm
khán
giả
thót
tim
sợ
anh
ca
rớt,
nhưng
không!
Khi
song
lang
vừa
gõ
dứt
câu
5,
Hữu
Phước
cũng
xuống
“Xề”
đúng
ngay
nhịp
mà
hơi
Ơ...
Ơ...
trầm
buồn
còn
kéo
dài
và
nhỏ
dần,
mất
hút
trong
vô
tận.
Khán
giả
nổi
một
tràng
pháo
tay
tán
thưởng,
các
anh
em
trong
đoàn
đứng
hai
bên
cánh
gà
cũng
vỗ
tay,
họ
quên
là
họ
đang
ở
trong
hậu
trường
sân
khấu,
không
nên
vỗ
tay
như
khán
giả
trong
khán
phòng.
Bà
Bầu
ăn
trầu,
xỉa
cục
thuốc
thật
lớn,
nhét
dưới
môi
làm
cho
miệng
của
bà
có
vẻ
méo,
bà
cười
cười,
cái
miệng
méo
thêm,
nhưng
rõ
ràng
bà
đang
rất
hài
lòng.
Ánh
mắt
bà
như
thầm
nói
từ
nay
hết
sợ
anh
Mười
Út
làm
khó
dễ
nữa.
Một
danh
ca,
vua
vọng
cổ
với
số
lương
mỗi
đêm
1.500
đồng,
contrat
một
triệu
năm
trăm
ngàn
đồng
(1.500.000
đồng)
và
một
anh
kép
trẻ,
lương
đêm
chỉ
có
250
đồng,
contrat
120.000
đồng,
vậy
mà
khán
giả
có
vẻ
thiên
về
bên
anh
kép
trẻ
hơn.
Những
vai
diễn
trên
sân
khấu,
ở
dĩa,
băng
từ
của
Hữu
Phước
có
thể
nói
là
những
vai
diễn
“để
đời”
có
rất
nhiều:
Hà
Lâm
(vở
Người
Đẹp
Bạch
Hoa
Thôn),
Hàn
Vinh
(Một
Trang
Tình
Sử),
Cang
(Nửa
Đời
Hương
Phấn),
Bác
sĩ
Vũ
(Đôi
Mắt
Người
Xưa),
Tư
Kiên
(Con
Gái
Chị
Hằng),
Linh
(Chuyện
Tình
17),
Tấn
(Tấm
Lòng
Của
Biển);
ca
vọng
cổ
lẻ
có
các
bài
được
nhiều
người
nhắc
tới
như
Đội
Gạo
Đường
Xa,
Tàu
Đêm
Năm
Cũ,
Đời
Vũ
Nữ,
Tình
Là
Dây
Oan
(ca
chung
với
Thanh
Nga).
Khi
tôi
đến
nhà
cụ
Vương
Hồng
Sển,
mời
bà
Năm
Sadec
thu
hình
chương
trình
Ban
Kịch
Phương
Nam,
cụ
Vương
Hồng
Sển
biết
tôi
là
soạn
giả
thường
trực
của
Đoàn
Thanh
Minh-Thanh
Nga,
trong
khi
ngồi
nói
chuyện
về
ca
cổ
nhạc,
cụ
Vương
Hồng
Sển
nói:
“Năm
mươi
năm
trước
chưa
ai
ca
vọng
cổ
hay
hơn
Hữu
Phước,
e
rằng
năm
mươi
năm
sau
cũng
chẳng
có
ai!”.
Hương
Lan
được
thừa
hưởng
di
truyền
của
Hữu
Phước
nên
từ
mấy
mươi
năm
qua,
cô
đã
tỏ
ra
xuất
sắc
trong
các
loại
hình
ca
nhạc,
cổ
nhạc,
diễn
cải
lương...
Làn
hơi
ca
của
Hương
Lan
mang
âm
hưởng
của
giòng
nước
chảy,
nhẹ
tỏa
như
làn
khói
lam,
lướt
xa
như
cánh
chim,
tiềm
ẩn
chất
giọng
vọng
cổ,
cải
lương
ở
miền
đất
phù
sa,
trù
phú
của
giòng
sông
Cửu
Long.
Hương
Thanh,
em
gái
của
Hương
Lan,
cũng
là
một
giọng
ca
quyến
rũ
trong
các
cuộc
biểu
diễn
văn
nghệ
của
Cộng
Đồng
Người
Việt
ở
Paris,
Pháp.
Hương
Thanh
được
giới
thưởng
ngoạn
tặng
cho
danh
hiệu
“Sứ
giả
nhạc
cổ
và
dân
ca
Việt
Nam
ở
Châu
Âu”.
Một
người
em
trai
của
Hương
Lan,
tên
Sáng,
bây
giờ
tôi
không
biết
rõ
đã
ra
sao.
Thân
mẫu
của
Hữu
Phước
ngày
xưa
là
một
nữ
nghệ
sĩ
cải
lương,
trong
giới
nghệ
sĩ
tiền
phong.
Bà
ca
vọng
cổ
và
các
bài
bản
lớn
cũng
rất
hay.
Trong
những
thập
niên
1960,
bà
thường
tổ
chức
tiệc
tùng
trong
nhà,
mời
nhiều
anh
em
diễn
viên
trong
đoàn
tới
nhà
bà
ăn
uống,
đờn
ca
tài
tử
thâu
đêm
suốt
sáng.
Hữu
Phước
có
cái
số
“đi
Tây”.
Sau
Tết
Mậu
Thân
68,
nhờ
sự
vận
động
của
ông
Đổng
Lân
(chồng
của
Thanh
Nga,
người
cũng
bị
thảm
sát
chung
với
Thanh
Nga)
Đoàn
Thanh
Minh-Thanh
Nga
đi
Pháp
trình
diễn
trong
hai
tháng.
Dịp
này,
Hữu
Phước
gặp
lại
gia
đình
bên
nội
tại
Paris
nên
được
gia
đình
hướng
dẫn
làm
hợp
thức
hóa
giấy
tờ
có
quốc
tịch
Pháp
cho
Hữu
Phước.
Năm
1978,
vì
có
quốc
tịch
Pháp
nên
cả
gia
đình
Hữu
Phước
được
trở
về
“Quê
hương”
Pháp.
Hữu
Phước
xa
rời
sân
khấu
cải
lương
như
con
cá
bị
vớt
ra
khỏi
nước,
hết
phương
vùng
vẫy.
Năm
1986,
Hữu
Phước
quy
tụ
những
nghệ
sĩ
cải
lương
đã
được
ra
nước
ngoài
(đi
chánh
thức
và
vượt
biên)
như:
Kiều
Lệ
Mai,
Hà
Mỹ
Liên,
Phương
Thanh,
Minh
Đức,
Kim
Chi,
Minh
Thanh,
Hoàng
Long
để
mong
làm
sống
lại
nghệ
thuật
cải
lương
ở
hải
ngoại.
Hữu
Phước
thương
tiếc
cái
thời
vàng
son
đã
qua,
nhiều
đêm
mơ
về
quê
cũ,
thấy
mình
vẫn
còn
đứng
hát
trên
sân
khấu
với
các
bạn
ngày
xưa.
Hữu
Phước
viết
bốn
câu
vọng
cổ,
tự
ca
lên
để
nói
nỗi
niềm
xa
xứ
và
nhớ
ánh
đèn
sân
khấu:
(nói
lối)
Mười
mấy
năm
rồi
biệt
cố
hương,
Dòng
thơ
ghi
lại
giữa
đêm
trường
Nửa
đêm
thức
giấc,
sầu
xa
xứ
Vọng
hướng
chân
trời,
để
nhớ
thương.
Trải
hết
tâm
tư
lên
từng
trang
giấy
mỏng,
hình
ảnh
thân
thương
chập
chờn
như
giấc
mộng,
kỷ
niệm
ngày
xưa
ghi
lại
giữa...
(câu
1)
...
đêm
tàn...
nhật
ký
đời
tôi
là
tiếng
hát
cung
đàn...
mỗi
khi
chiều
xuống
là
thấy
lòng
mình
rạo
rực,
mong
đến
gặp
bạn
bè
nơi
hí
viện
từng
đêm.
Say
đắm
lòng
mình
qua
lớp
phấn
son,
mà
sân
khấu
cải
lương
như
có
một
linh
hồn,
nên
mới
khiến
cho
những
kẻ
ly
hương
đêm
từng
đêm
gục
đầu
tưởng
nhớ.
(câu
2)
Ôi!
Nhớ
vai
Lý
Quảng
trong
vở
Hoa
Mộc
Lan
bên
cạnh
một
Thanh
Nga,
một
chiến
binh
kiều
diễm,
mà
đôi
bạn
tâm
giao
đã
bao
phen
vào
sanh
ra
tử,
trước
làn
tên
mũi
đạn
giữa
chốn
sa
trường...
kỷ
niệm
ngày
xưa
vương
vấn
mãi
trong
hồn...
một
nam
tước
Bảo
Sinh
trong
Cung
Đàn
Trên
Sông
Lạnh,
một
bác
sĩ
Vũ
nhân
từ
trong
vở
Đôi
Mắt
Người
Xưa.
Rồi
từ
huy
chương
vàng
diễn
viên
xuất
sắc,
giải
Thanh
Tâm,
cùng
một
lượt
với
Bạch
Tuyết,
trong
năm
sáu
mươi
bảy,
những
lúc
canh
khuya
bồi
hồi
tôi
nhớ
lại,
nước
mắt
trào
ràng
rụa
giữa
làn
mi.
(nói
lối)
Có
những
lúc
mơ
màng
trong
giấc
ngủ
Tôi
cứ
ngỡ
mình
đang
sống
giữa
quê
hương,
Chợt
nhớ
ra
mình
là
kẻ
tha
phương
Giữa
đêm
lạnh
ngập
đường
bông
tuyết
trắng.
Ôi!
Nhớ
giọng
ca
trầm
ấm
của
nghệ
sĩ
Tám
Thưa,
nhớ
tiếng
cười
vui
của
lão
độc
Hoàng
Giang
và
giọng
ca
nức
nở
bi
thương
của
Út
Bạch
Lan
sầu
nữ,
những
người
anh
người
chị
thân
yêu
đã
dìu
dắt
từng
bước
tôi
đi
trên
bước
đường
lên
sân
khấu,
suốt
bao
năm
biết
mấy...
(câu
5)
...
ân
tình...
ơn
nghĩa
ngày
xưa
ghi
đậm
giữa
tim
mình...
tiếng
đờn
của
mười
Út
Trần
Hữu
Lương
như
còn
văng
vẳng
trong
những
đêm
buồn
nơi
đất
lạ
trời
xa,
nhớ
ngày
nào
mới
tập
tễnh
học
đờn
ca,
đứng
trước
khán
giả
sao
lạ
lùng
bỡ
ngỡ,
lần
đầu
tiên
tôi
bước
ra
sân
khấu,
vở
Lấp
Sông
Gianh,
tôi
nhớ
mãi
đến
bây
giờ.
(câu
6)
...
Ôi!
Nhớ
làm
sao
những
tiếng
nhạc
lời
ca,
nhớ
khán
giả,
nhớ
ánh
đèn
sân
khấu,
có
ai
còn
nhớ
vai
Tấn
trong
Tấm
Lòng
Của
Biển,
hay
vở
Con
Gái
Chị
Hằng
trong
vai
Cậu
Tư
Kiên,
có
đêm
nằm
mơ
tôi
thấy
mình
đang
đứng
cạnh
Thanh
Nga
và
hai
tôi
đang
diễn
vở
Người
Vợ
Không
Bao
Giờ
Cưới.
Sơn
Nữ
Phà
Ca
gục
đầu
nức
nở
và
nước
mắt
người
yêu
nghe
ràng
rụa
thấm
vai
mình...
+
Chuông
giáo
đường
bỗng
vọng
tiếng
ngân
nga,
tôi
tỉnh
giấc
ngoài
trời
tuyết
đổ,
nơi
đất
khách
trong
những
đêm
không
ngủ,
tôi
cứ
ngỡ
là
mình
đang
diễn
tuồng
trên
sân
khấu
quê
hương.
Tâm
trạng
của
Hữu
Phước
có
thể
đại
diện
cho
tâm
trạng
của
những
nghệ
sĩ
bị
buộc
phải
ly
hương.
Không
có
khán
giả
đông
đảo
như
ở
Việt
Nam,
không
có
nghệ
sĩ
bạn
diễn
đồng
sức
đồng
tài,
không
có
soạn
giả,
đạo
diễn
tạo
dựng
các
vai
trò
bằng
vàng
và
cũng
không
có
một
sàn
diễn,
một
sân
khấu
đêm
đêm
sáng
đèn
để
Hữu
Phước
trổ
tài
thì
Hữu
Phước
phải
khô
cạn
dần
như
con
cá
mắc
cạn
chờ
chết,
có
vẫy
vùng
đôi
chút,
mòn
mỏi
nhớ
thương
biển
rộng
sông
dài.
Tiếc
thay
Hữu
Phước
mất
đi,
một
ngôi
sao
sáng
chói
của
sân
khấu
cải
lương
hơn
40
năm
đã
rời
ngôi
vị
và
tắt
lịm
rồi.
Một
đời
cho
nghệ
thuật
sân
khấu
cải
lương,
chẳng
biết
có
ai
còn
nhớ
đến
giọng
ca
vàng
Hữu
Phước
không?
Nguyễn
Phương,
2012
Mã
an
toàn:
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Ý kiến bạn đọc