Đang truy cập : 135
•Máy chủ tìm kiếm : 3
•Khách viếng thăm : 132
Hôm nay : 8622
Tháng hiện tại : 1080819
Tổng lượt truy cập : 76896197
Trong đời nghệ sĩ, một lần được thế vai diễn của thần tượng chắc chắn sẽ là kỷ niệm khó quên trong sự nghiệp hóa thân với hàng trăm số phận. Nghệ sĩ Trung Dân đã có những khoảnh khắc đáng nhớ.
NSƯT Minh Vương: Lận đận làm nên danh phận
Để đáp lại tình cảm của công chúng, cũng như để tri ân những người đã giúp ông vượt qua cơn hiểm nghèo của căn bệnh suy thận mãn tính, đặc biệt với người thanh niên quá cố ẩn danh đã hiến tặng ông hai quả thận, chỉ sau hai tháng rời giường bệnh, NSƯT Minh Vương đã mau chóng trở lại trong hàng ghế giám khảo giải Chuông vàng vọng cổ 2012. Trong niềm vui được “tái sinh”, NSƯT Minh Vương, một người lâu nay vốn kín kẽ, đã không ngần ngại trải lòng với PNCN
* Được trở lại sân khấu sau cơn “thập tử nhất sinh”, chắc cảm xúc của ông phải rất đặc biệt?
- Trong suốt cuộc đời đi hát của tôi, thời gian qua là thời gian tôi rời sàn diễn lâu nhất. Bị ói thường xuyên đến mất ăn, mất ngủ mà không tìm ra bệnh, tôi rất bi quan, nghĩ cuộc đời mình vậy là đã đến “hồi”, nói chi đến chuyện hát. May mà trời thương cho gặp được vị bác sĩ giỏi, chỉ đúng bệnh và may hơn nữa, có được ân nhân cho thận phù hợp với nhóm máu. Tôi như người chết sống lại nên càng muốn cống hiến hết sức lực để đáp trả tình người, tình đời sâu nặng.
* Vậy là cũng đã tròn 48 năm kể từ ngày cậu thiếu niên 14 tuổi Nguyễn Văn Vưng đoạt giải Khôi nguyên vọng cổ, khởi đầu cho sự xuất hiện của một Minh Vương tài danh trên sân khấu cải lương. Trước đó, ông có dự cảm nào về một tương lai rực rỡ của mình như vậy không, hoặc một ước mơ “cháy bỏng” nào đó về con đường nghệ thuật?
- Nói thật là hồi nhỏ tôi chẳng có dự cảm hay ước mơ gì về nghệ thuật, một thứ quá cao xa đối với một thằng nhỏ trong một gia đình lao động nghèo đông con như gia đình tôi. Cuộc sống ở quê (Cần Giuộc, Long An) khó khăn, ba má đưa bảy anh em tôi lên Sài Gòn mưu sinh. Nhà tôi ở quận 8, gần cầu chữ Y, ngày ngày đi học cũng như đi vớt lăng quăng cho cá lia thia nuôi ở nhà, tôi luôn đi ngang qua một lớp luyện ca cổ của nghệ nhân Bảy Trạch, một nhạc công đờn kìm trứ danh của Đoàn cải lương Kim Chung. Mặc dù trước đó chẳng bao giờ để ý đến chuyện hát hò nhưng nghe riết, tôi đâm ra ghiền, rồi một bữa mạnh dạn ghé vào xin học. Sau khi hát thử, thầy khen tôi có giọng tốt và nhận dạy miễn phí. Học đâu chừng gần một năm, thầy Bảy dắt tôi đi thi Khôi nguyên vọng cổ do báo giới Sài Gòn tổ chức, một cuộc thi bốn năm một lần. Vượt qua gần 300 thí sinh, tôi đoạt giải nhất. Mười thí sinh ở vòng chung kết phải thi hát cùng một bài do soạn giả Viễn Châu mới sáng tác. Nhìn các em thí sinh Chuông vàng vọng cổ bây giờ cầm giấy thi tài trong vòng ba người cuối cùng, tôi nhớ đến mình ngày xưa. Sau khi đoạt giải, tôi được đoàn Kim Chung mời ký giao kèo. Vậy là tôi trở thành kép hát. Chuyện vào nghề thật bất ngờ và ngỡ ngàng ngay cả với chính tôi, nói ra không mấy ai tin.
* Khi đặt cho ông nghệ danh Minh Vương, ông bầu Long của đoàn Kim Chung lúc ấy có lẽ đã thấy trước tương lai của một “ông vua” trên sân khấu cải lương?
- Tên tôi là Vưng, chuyển sang Vương nghe cũng thuận tai. Lúc đó, ông nói nửa đùa nửa thật “Tôi sẽ cho cậu làm vua trong nghề hát”. Nhưng làm vua đâu chẳng thấy, mấy năm đầu tôi như một… tạp vụ, ai kêu gì làm nấy, đoàn đi lưu diễn phải ngồi băng ghế sau cùng dành cho người có “cấp bậc” thấp nhất trong đoàn. Danh hiệu Khôi nguyên vọng cổ chỉ đem lại cho tôi công việc được ra hát bài ca giữa tuồng khi người ta nghỉ giải lao. Phải mất bốn năm sau, khi tôi 18 tuổi, thấy “có lông, có cánh”, người ta mới cho “ra ràng”, đóng vai chính đầu tiên.
* Minh Cảnh, Minh Phụng, Minh Vương… dư luận một thời đồn rằng những “Minh” này xuất thân cùng một trường phái hát giọng… mái! Là người nhỏ tuổi nhất, ông có chịu ảnh hưởng của hai ông anh trong nghề?
- Thế hệ chúng tôi không mấy ai học cải lương trong trường lớp chính quy, thường xuất thân từ các “lò” đờn ca tài tử, nhưng chủ yếu chỉ học ca, không có lớp dạy diễn, tất cả đều phải mày mò tự học, người trước rước người sau, tùy vào mức độ lòng tốt của từng người. Vì vậy, chuyện ít nhiều bị ảnh hưởng từ người này người nọ là lẽ đương nhiên. Riêng tôi, những bậc cha chú, đàn anh như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Minh Cảnh… ai có cái gì hay mình đều học hỏi. Nhưng cho rằng những người có nghệ danh bắt đầu bằng “Minh” là xuất thân cùng một “lò” thì không phải. Đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi, kể cả chất giọng nếu có. Nhưng thật ra, mỗi người chúng tôi đều có nét riêng. Có giống nhau chăng là ở chỗ phải hát chuẩn bài vọng cổ, chắc nhịp và có những luyến láy cho hay.
* Danh xưng “ông hoàng cải lương” mà dư luận sau này dành cho Minh Vương có vẻ như đã chứng thực lời dự đoán trước đây của ông bầu Long. Theo ông, nhờ đâu ông tới được “ngai vàng”?
- Đó là người ta khen tặng chứ tôi chưa bao giờ dám tự xưng như vậy. Tôi nghĩ, khán giả thương tôi trước hết ở giọng ca. Tôi có chất giọng kim, lên cao khỏe và trong. Thứ hai, nhờ có làn hơi phong phú, tôi diễn trong ca dễ dàng, đưa nhân vật vào được lòng người. Thứ ba, một phần không nhỏ nhờ có sắc vóc. Bên cạnh đó, suốt cuộc đời đi hát, tôi luôn nhớ lời thầy Bảy Trạch dạy, đi theo nghề cải lương phải biết khiêm tốn, nhường nhịn và học hỏi.
* Giới làm nghề giải trí vào thời nào, ở đâu cũng nảy nở và tồn tại những thị phi, đố kỵ cũng như những cám dỗ, ông làm thế nào thoát ra được những thứ đó?
- Tôi vốn thích sự hữu hảo, hòa khí nên gặp sự ganh ghét thường nhường nhịn, bởi không muốn để xảy ra chuyện không hay cho bản thân. Một sự nhịn, chín sự lành, ông bà mình từ xưa đã nói như vậy rồi. Chịu thiệt thòi cũng là dịp tốt để mình cố gắng vươn lên. Hồi tôi mới vào nghề hát ở Kim Chung, bị người ta ganh ghét kêu người ngoài vào sân khấu đòi đánh để mình sợ mà bỏ đi, nhưng tôi được những người khác trong đoàn thương xúm lại bảo vệ. Người ta giành sân khấu này, tôi đi sân khấu khác. Tôi nhịn để được tồn tại với nghề, mới ở với nghề lâu bền đến ngày nay. Đi nghề hát này đúng là có nhiều cám dỗ lắm, nhưng tôi cố tránh nên không vướng vào cái gì hết. Tôi không thuốc lá, không rượu bia, không cờ bạc, thậm chí không cả cà phê. Bước vào nghề hát, thầy đã dạy tôi phải giữ giọng ca và sức khỏe cho tốt, đừng hút xách, đừng chơi bời. Đêm nào vãn tuồng, hậu trường cũng gầy hai ba sòng, nhưng tôi chỉ đứng ngoài ngó một chút rồi đi ngủ. Mình không giữ mình thì không có ai giữ cho mình, mà hậu quả cũng chỉ mình chịu.
* Cuộc đời Minh Vương, lúc nào là “đỉnh của đỉnh” và lúc nào là “đáy của đáy”?
- Tôi lên “đỉnh” là ở những năm đầu thập niên 1980 với bốn vai lớn trong đời, cho tôi cơ hội phát huy được hết nội lực ca diễn. Đó là Nguyễn Trãi (vở Rạng ngọc Côn Sơn), một đại phu lão thành; là Võ Minh Luân (Đời cô Lựu), một thiếu niên chăn trâu; là Minh (Tô Ánh Nguyệt), một trí thức trẻ thời phong kiến; là Hai Phước (Pha lê và cát bụi), một đảng viên, cán bộ lãnh đạo thời hiện đại. Trước năm 1975, tôi chuyên đóng tuồng hương xa với những nhân vật “kiếm sĩ” một màu nên tôi ca là ca cho Minh Vương, khoe giọng là chủ yếu. Sau năm 1975, tôi ca cho nhân vật, tạo cảm xúc cho khán giả qua số phận của vai diễn. Đặc biệt là bốn nhân vật vừa kể trên, tuổi tác và tính cách của họ hoàn toàn khác nhau và tôi đã phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” mới hóa thân vào được. Riêng vai Nguyễn Trãi, tôi sắm vai này lúc tuổi còn trẻ nên phải mời “má” Kim Cúc (vợ nghệ sĩ Năm Châu) về nhà dạy cho biết cách đi đứng của “đại phu” trong suốt một tuần lễ.
Còn rớt xuống “đáy” là khi gia đình lục đục, phải ly hôn sau hơn 20 năm chung sống với hai mặt con. Lúc đó, tôi đã bỏ lại tất cả, ra đi với bộ đồ trên người, không gia đình, không nhà cửa, không xe cộ, về tá túc nhà cô em gái… Rồi bỗng dưng gặp chuyện rắc rối liên quan đến bà Bé Tư, đến tòa án. Trong chuyện này, tôi tình ngay mà lý cũng không gian, sau này tất cả đã được sáng tỏ, nhưng hồi đó dư luận ác ý làm ầm ĩ, ảnh hưởng đến thanh danh, làm tôi muốn gục ngã. Gia đình lớn của tôi ở bên Úc nghe vậy, lo giấy tờ cho tôi qua bên đó sống. Tôi đã cầm hộ chiếu trong tay nhưng cứ chần chừ, cuối cùng chọn ở lại VN vì không muốn rời xa sân khấu, xa khán giả. Lúc đó, tôi cứ phải tự động viên mình ráng chịu đựng, thế nào bão tố cũng qua. Và quyết định đó của tôi đã đúng.
* Thật ngạc nhiên khi chị Hồng (nguyên là chủ tiệm vải áo dài Dễ thương nổi tiếng), vợ ông hiện nay, tiết lộ rằng, trước khi gặp ông, chị chưa hề đi xem một vở cải lương nào và sau khi làm vợ NSƯT Minh Vương, chị cũng không phải là “fan” cải lương của ông?
- Tôi và Hồng tình cờ gặp nhau trong một cuộc họp mặt bạn bè. Cô ấy không phải là dân mê cải lương nên đó là lần đầu tiên chúng tôi biết nhau. Hồng nói thương tôi vì tính tình tôi hiền lành, vì con người ngoài đời của tôi, vì những khổ đau tôi đã trải qua chứ không phải vì tôi là nghệ sĩ. Về sống với nhau, tôi thấy cô ấy đúng là người phụ nữ trời ban cho mình. Tính tình dịu dàng, Hồng lo cho tôi từng miếng ăn giấc ngủ, tận tình chăm sóc tôi những lúc đau ốm, bệnh hoạn. Con gái chung của chúng tôi năm nay đã ở vào tuổi 20. Hai đứa con riêng của tôi với người vợ trước cũng rất quý Hồng. Chúng đều đã có gia đình riêng nhưng vẫn thường lui tới thăm chơi và cùng “hợp tác chặt chẽ” trong việc lo cho tôi trong suốt thời gian vừa qua. Cuộc sống của tôi hiện nay sau khi sức khỏe được hồi phục, phải nói là trọn vẹn cả đôi đường, thật không mơ ước gì hơn. Nhìn lại đời mình, tôi xin cám ơn những thăng trầm lận đận. Chính những lận đận đã làm nên danh phận đời tôi.
* Từng nhiều lần ngồi ghế giám khảo các cuộc thi tuyển giọng ca cải lương, ông có chút niềm tin nào vào lớp trẻ kế tục?
- Trải qua bao mùa thi tuyển, tôi vẫn chưa thấy xuất hiện những nhân tố có đầy đủ yếu tố về thanh sắc để có thể tiếp nối vinh quang của nghệ thuật cải lương thế hệ trước. Có lẽ chúng tôi phải tiếp tục tìm kiếm nhiều thêm nữa.
Mã an toàn:
Trong đời nghệ sĩ, một lần được thế vai diễn của thần tượng chắc chắn sẽ là kỷ niệm khó quên trong sự nghiệp hóa thân với hàng trăm số phận. Nghệ sĩ Trung Dân đã có những khoảnh khắc đáng nhớ.
Ý kiến bạn đọc