Đang
truy
cập
:
160
•Máy chủ tìm kiếm : 93
•Khách viếng thăm : 67
Hôm
nay
:
29646
Tháng
hiện
tại
:
677655
Tổng
lượt
truy
cập
:
100960184
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Minh Cảnh: hơi ca huyền điệu
Sau “vua vọng cổ” Út Trà Ôn, thì một trong những nghệ sĩ tiêu biểu nhất của trường hợp này là nghệ sĩ Minh Cảnh, một cái tên gắn liền với rất nhiều bài vọng cổ, một giọng ca thuộc hàng “vô tiền khoáng hậu”.
“Em
bé
đánh
giày”
là
một
bài
vọng
cổ
được
nhiều
người
yêu
thích.
Bài
hát
này
đã
gắn
liền
với
tên
tuổi
của
nam
nghệ
sĩ
Minh
Cảnh.
Nói
“gắn
liền”
ở
đây
là
muốn
nhấn
mạnh
rằng,
từ
khi
Minh
Cảnh
thể
hiện
bài
ca
này,
chưa
thấy
có
giọng
ca
nào
thể
hiện
ngang
bằng
được
chứ
đừng
nói
chi
là
vượt
hơn
tiền
bối. Thế
nhưng,
có
mấy
người
biết
rằng,
Minh
Cảnh
đã
gửi
hồn
trọn
vẹn
vào
bài
ca
này
với
cảm
giác
hết
sức
chân
thật
bởi
nội
dung
bài
ca
sao
mà
giống
với
cuộc
đời
Minh
Cảnh
quá.
Không
biết
có
phải
soạn
giả
Viễn
Châu
đã
cố
ý
lồng
cuộc
đời
của
Minh
Cảnh
vào
bài
hát
này
để
cho
anh
thể
hiện
hay
không
?
Một
bước
lên
mây
nhờ
giọng
ca
Cũng
giống
như
hầu
hết
các
nghệ
sĩ
cải
lương
thuộc
thế
hệ
vàng,
Minh
Cảnh
xuất
thân
hàn
vi.
Minh
Cảnh
tên
thật
là
Nguyễn
Văn
Cảnh,
sinh
năm
1939
tại
Sài
Gòn.
Do
gia
đình
hết
sức
nghèo
khó
lại
đông
anh
em,
nên
cậu
bé
Nguyễn
Văn
Cảnh
đã
phải
nghỉ
học
sớm,
và
cái
tuổi
ấu
thơ
của
Cảnh
là
những
ngày
tháng
sống
trên
đống
rác.
Có
thể
nói
như
vậy
cũng
không
quá,
bởi
vì
lúc
mới
lên
mười,
cậu
bé
Cảnh
đã
phải
suốt
ngày
lượm
ve
chai
ở
các
bãi
rác,
chiều
tối
thì
đi
bán
chuối
chiên.
Cũng
chính
nhờ
chuối
chiên
đã
đưa
Cảnh
đến
với
Út
Trà
Ôn.
Số
là,
nơi
chiên
chuối
chiên
mà
Cảnh
nhận
về
bán
lại
nằm
ở
gần
sát
nhà
của
Đệ
nhất
danh
ca
Út
Trà
Ôn.
Thế
là,
Cảnh
có
dịp
được
nghe
giọng
ca
của
ông.
Càng
nghe
lại
thấy
càng
lấy
làm
mê
lắm,
nhưng
thuở
ấy
nào
đâu
dám
mơ
đến
chuyện
trở
thành
nghệ
sĩ.
Thời
gian
sau
đó
Cảnh
học
ca
vọng
cổ.
Và
điều
đáng
ngạc
nhiên
nữa
là,
người
thầy
đầu
tiên
dạy
ca
vọng
cổ
cho
Cảnh
lại
là
một
anh
thợ
hớt
tóc.
Biết
ca
vọng
cổ
và
có
giọng
ca
hay
còn
chưa
đủ,
mà
trong
sân
khấu
cải
lương
có
một
điều
rất
khó
giải
thích,
đó
là
phải
có
“duyên”
với
sân
khấu,
nếu
không
dù
có
ca
hay
ca
giỏi
đến
đâu
thì
cũng
khó
lòng
nổi
tiếng
chứ
chưa
nói
là
bị
mai
một.
Thực
tế
của
sân
khấu
cải
lương
gần
100
năm
qua
đã
chứng
minh
được
điều
đó.
Cái
“duyên”
đó
đã
đến
với
Cảnh
khi
mà
vào
dịp
giỗ
tổ
năm
1960,
chàng
thanh
niên
21
tuổi
Nguyễn
Văn
Cảnh
được
ông
thầy
đờn
Năm
Được
giới
thiệu
vào
ca
cho
ông
bầu
của
đoàn
Kim
Chung
nghe.
Sau
khi
nghe,
ông
bầu
Kim
Chung
lập
tức
quyết
định
ký
hợp
đồng
dài
hạn
với
Cảnh.
Kim
Chung
xưa
kia
là
một
đại
bang
đình
đám
nhất
trong
giới
cải
lương.
Được
về
Kim
Chung
đó
là
mong
ước
của
không
ít
nghệ
sĩ
dù
đã
nổi
tiếng
lúc
bấy
giờ.
Thế
mà,
cái
tài
ca
vọng
cổ
của
Minh
Cảnh
đã
lập
tức
« lọt
vào
mắt
xanh »
của
ông
bầu
Kim
Chung
để
bắt
đầu
bước
lên
đỉnh
vinh
quang.
Thực
tế
đã
chứng
minh,
con
mắt
nhà
nghề
của
ông
bầu
Kim
Chung
quả
thật
chính
xác,
bởi
vì
quyết
định
tức
thì
của
ông
đã
mang
đến
cho
sân
khấu
cải
lương
một
nghệ
sĩ
Minh
Cảnh
lừng
danh,
một
anh
kép
chánh
Minh
Cảnh
có
tài
ca
vọng
cổ
thuộc
hàng
“sư
phụ”.
Giọng
ca
« nhẹ
như
mây »
Minh
Cảnh
là
một
nghệ
sĩ
ca
diễn
song
toàn.
Lối
diễn
xuất
của
ông
theo
kiểu
“đơn
giản
hóa”,
tức
là
những
động
tác
phù
hợp
một
cách
rõ
ràng
với
vai
diễn,
người
xem
không
cần
phải
đau
đầu
suy
nghĩ
mới
có
thể
hiểu
được
điều
mà
nhân
vật
muốn
thể
hiện.
Điểm
đáng
chú
ý
nhất
trong
cách
diễn
của
Minh
Cảnh
mà
thế
hệ
nghệ
sĩ
cải
lương
trẻ
cần
học
hỏi,
đó
là
người
xem
cảm
nhận
rất
rõ
ông
luôn
sống
hết
mình
với
nhân
vật
trên
sân
khấu.
Ngay
cả
những
năm
gần
đây,
khi
tuổi
đã
thuộc
hàng thất
thập
cổ
lai
hy,
khi
mà
nghề
nghiệp
ca
diễn
đã
thuộc
hàng
bậc
thầy,
nhưng
mỗi
khi
Minh
Cảnh
lên
sân
khấu,
là
người
ta
luôn
thấy
ông
ca
diễn
hết
mình
với
nhân
vật.
Tuy
nhiên,
cái
tài
ca
vọng
cổ
của
Minh
Cảnh
thần
sầu
đến
mức
đã
che
mờ
cái
tài
diễn
xuất
của
ông,
để
mỗi
khi
người
mộ
điệu
cải
lương
nhắc
đến
ông
là
lập
tức
nghĩ
ngay
đến
một
giọng
ca
và
một
cách
ca
vọng
cổ
thượng
thừa.
Trước
Minh
Cảnh
đã
có
hai
vị
cao
thủ
ca
vọng
cổ
là
Út
Trà
Ôn
và
Hữu
Phước.
Út
Trà
Ôn
là
bậc
thầy
của
lối
ca
chân
phương
đậm
chất
tài
tử,
không
kiểu
cọ.
Giọng
ca
Út
Trà
Ôn
có
âm
vực
rất
rộng,
có
một
độ
vang
lộng
khó
tả,
tạo
chất
trầm
ấm
bi
hùng.
Đặc
biệt,
Út
Trà
Ôn
là
có
một
bộ
nhịp
thượng
thừa
và
một
lối
ca
chẻ
nhịp
độc
đáo.
Nhịp
nhàng
vọng
cổ
thì
nghệ
sĩ
nào
cũng
rành,
nhưng
để
đạt
được
lối
ca
chẻ
nhịp
và
cách
xấp
chữ
điêu
luyện
như
Út
Trà
Ôn
thì
quả
thật
chưa
thấy
có
ai
đạt
đến
được.
Nói
về
nam
danh
ca
Hữu
Phước,
đây
là
một
giọng
ca
vàng.
Dù
xuất
hiện
sau
Út
Trà
Ôn,
nhưng
Hữu
Phước
vẫn
tạo
được
chỗ
đứng
riêng
với
lối
ca
điêu
luyện
bậc
thầy.
Có
người
cho
rằng,
cái
khác
biệt
giữa
Hữu
Phước
và
Út
Trà
Ôn
đó
là
Hữu
Phước
ca
lạng
bẻ,
hoa
lá,
mùi
mẫn.
Thế
nhưng,
nếu
nghe
kỹ
ta
thấy
rằng,
lối
ca
của
cả
hai
nghệ
sĩ
bậc
thầy
này
đều
thuộc
lối
chân
phương,
chuẩn
mực,
không
lạng
bẻ.
Nói
“không
lạng
bẻ”
ở
đây
không
phải
là
nói
họ
ca
một
cách
khô
khan
thiếu
uyển
chuyển,
mà
họ
ca
rất
mẫu
mực
thể
hiện
được
trọn
vẹn
tính
chân
phương-cái
hồn
của
bài
vọng
cổ.
Thử
nghe
kỹ
hai
nghệ
sĩ
bậc
thầy
này
ca,
ta
thấy
họ
ca
lã
lướt,
điêu
luyện,
và
đặc
biệt
họ
rất
chú
ý
“vuốt”
chữ
cho
“ngọt”.
Cái
“lả
lướt”
ở
đây
là
lả
lướt
trong
chuẩn
mực
chân
phương.
Nói
như
vậy
không
phải
giữa
họ
không
có
sự
khác
biệt,
bởi
nếu
không
có
sự
khác
biệt
thì
làm
sao
có
cái
tên
Hữu
Phước
như
đã
có.
Thứ
nhất,
ta
thấy
giọng
Hữu
Phước
hơi
trong
hơn
giọng
Út
Trà
Ôn,
mà
nói
theo
từ
trong
nghề
thì
Út
Trà
Ôn
có
giọng
đồng,
còn
Hữu
Phước
có
giọng
kim
pha
thổ.
Nhờ
trong
hơn,
nên
giọng
ca
Hữu
Phước
tạo
được
vẽ
“mềm”
hơn
giọng
Út
Trà
Ôn.
Từ
đó,
Hữu
Phước
ca
có
phần
“mềm,
dịu”
hơn
Út
Trà
Ôn,
tức
là
tạo
được
nét
mới
hơn,
nhưng
là
cái
mới
trên
nền
sự
chân
phương.
Đến
với
Minh
Cảnh,
giọng
ca
của
ông
đã
có
phần
mạo
hiểm
khi
đã
dám
tạo
ra
cái
khác
biệt
với
hai
bậc
tiền
bối.
Có
người
cho
rằng,
cái
“mới”
của
Minh
Cảnh
mang
đến
cho
bài
vọng
cổ
đó
là
ông
đã
bắt
đầu
cho
trường
phái
ca
hơi
dài
(vô
vọng
cổ
một
mạch
nhiều
chữ)
và
đưa
hò
Huế
vào
trong
bài
vọng
cổ.
Điều
đó
cũng
đúng,
nhưng
chưa
đủ,
bởi
đóng
góp
đặc
sắc
nhất
của
Minh
Cảnh
cho
bài
vọng
cổ
đó
là
ông
ca
lả
lướt,
nhấn
nhá,
lạng
bẻ.
Dù
rằng
cái
hồn
của
vọng
cổ
là
chân
phương,
nhưng
nếu
trên
nền
của
chân
phương
mà
sáng
tạo
thêm
một
cách
“điệu
nghệ”,
thì
cũng
chưa
hẳn
là
không
tốt.
Và
Minh
Cảnh
đã
minh
chứng
được
cái
điệu
nghệ,
bản
lĩnh
và
khả
năng
sáng
tạo
trong
cách
ca
vọng
cổ
trên
nền
tảng
của
sự
chân
phương.
Nếu
nói
Minh
Cảnh
ca
chỉ
có
lạng
bẻ
mà
không
chân
phương
là
không
chính
xác,
bởi
vì
trong
cách
ca
của
Minh
Cảnh
ta
vẫn
thấy
có
sự
chân
phương,
nhưng
ông
giữ
một
độ
chân
phương
vừa
phải,
và
bổ
sung
vào
đó
bằng
sự
nhấn
nhá,
lạng
bẻ
rất
độc
đáo.
Minh
Cảnh
lạng
bẻ
ngay
cả
khi
vô
vọng
cổ,
tạo
được
một
lối
vô
vọng
cổ
rất
độc
đáo,
không
nhầm
lẫn
vào
đâu
được.
Cái
lạng
bẻ
của
Minh
Cảnh
không
phải
là
vô
lối,
mà
rất
được
trau
chuốt,
chăm
sóc
kỹ
từng
cách
nhả
chữ,
cách
phát
âm.
Cái
độc
đáo
của
sự
lạng
bẻ
của
Minh
Cảnh
là
ông
ca
“tung
tăng”
trên
dây
đờn.
Và
chính
sự
“tung
tăng”
trên
dây
đờn
này
đã
cho
thấy
Minh
Cảnh
có
một
bộ
nhịp
thượng
thừa,
một
lối
ca
điêu
luyện.
Minh
Cảnh
xấp
chữ
rãi
đều
ở
các
câu
như
Út
Trà
Ôn.
Đặc
biệt,
Minh
Cảnh
thường
ca
chẻ
song
lang
ở
nhịp
24
nghe
rất
“đã
tai”.
Thế
nhưng,
đặc
biệt
hơn
hết
ở
giọng
ca
Minh
Cảnh
mà
trước
và
sau
ông
chưa
ai
có
được,
đó
là
ông
có
một
phong
cách
ca
và
một
giọng
ca
“nhẹ
như
mây”.
Giọng
ca
Minh
Cảnh
cao
vút,
thế
mà
khi
nghe
Minh
Cảnh
ca
người
ta
không
có
cảm
giác
ông
ráng
hơi
hay
ra
sức
vuốt
chữ
gì
cả,
mà
chỉ
thấy
ông
ca
rất
tự
nhiên,
rất
nhẹ
nhàng.
Cộng
với
lối
cảnh
lả
lướt,
« tung
tăng »
trên
dây
đờn,
giọng
ca
cao
vút
của
Minh
Cảnh
tựa
hồ
một
áng
mây
chiều
trôi
bồng
bềnh
trên
nên
trời
xanh
thẳm.
Vì
thế,
giọng
ca
Minh
Cảnh
mang
đến
cho
người
nghe
một
cảm
giác
rất
nhẹ
nhàng
và
rất
êm
dịu.
Người
nghe
như
được
“bay
bổng”
theo
tiếng
ca
“nhẹ
như
mây”
của
Minh
Cảnh,
để
thả
hồn
theo
tiếng
ca
trầm
bổng
,
lả
lướt,
lạng
bẻ
theo
những
cung
bậc
bổng
trầm
của
tiếng
đờn
vọng
cổ,
để
bị
ru
hồn
lúc
nào
mà
không
biết.
Ta
thấy
rằng,
ca
theo
lối
hò
Huế
hay
ca
hơi
dài,
hoặc
ca
chắc
nhịp
hay
ca
lạng
bẻ,
thì
các
thế
hệ
tiếp
nối
của
Minh
Cảnh
cũng
đã
có
người
tiếp
bước.
Thế
nhưng,
để
tạo
được
phong
cách
« nhẹ
như
mây »
như
Minh
Cảnh
thì
đến
hiện
tại
chưa
thấy
có
người
kế
thừa.
Ngay
cả
những
nghệ
sĩ
thành
danh
nhờ
vào
cách
học
theo
lối
ca
và
giọng
ca
Minh
Cảnh,
có
người
còn
ca
rất
giống
Minh
Cảnh,
nhưng
người
nghe
có
cảm
giác
họ
ca
cao
vút
mà
ra
sức
ráng
hơi
hoặc
lạm
dụng
kỹ
thuật
chứ
không
đạt
được
trình
độ
ca
tự
nhiên,
ca
nhẹ
nhàng
của
Minh
Cảnh.
Để
đời
rất
nhiều
bài
vọng
cổ
Xưa
nay,
đối
với
nghệ
sĩ
cải
lương,
tên
tuổi
« để
đời »
với
một
bài
vọng
cổ
cũng
đã
là
một
việc
không
phải
dễ
dàng.
Còn
như
để
đời
với
nhiều
bài
vọng
cổ
cùng
một
lúc,
thì
cực
kỳ
hiếm.
Ấy
vậy
mà,
Minh
Cảnh
không
chỉ
thành
công
với
một
vài
bài,
mà
đã
để
đời
với
rất
nhiều
bài
vọng
cổ.
Số
lượng
bài
ca
vọng
cổ
mà
hễ
nhắc
đến
nó
là
nghĩ
ngay
đến
Minh
Cảnh,
thật
sự
khó
liệt
kê
cho
hết: Tu
là
cội
phúc,
Võ
Đông
Sơ,
Trái
gùi
Bến
Cát,
Sầu
vương
ý
nhạc,
Lưu
Bình
Dương
Lễ,
Tô
Võ
chăn
dê,
Hoa
đào
trước
gió,
Trống
loạn
Thăng
Long
thành,
Người
điên
yêu
trăng,
Em
bé
đánh
giày,
Lương
Sơn
Bá,
Trăng
sáng
vườn
chè,
Mưa
trên
phố
Huế,
Duyên
quê…
Điều
đặc
biệt
ở
đây
đó
là,
tất
cả
những
bài
vọng
cổ
nêu
trên,
người
ta
có
cảm
giác
rằng
sau
khi
Minh
Cảnh
ca
thì
không
còn
ai
thể
hiện
hay
hơn
nữa,
bởi
vậy
mỗi
lần
muốn
nghe
những
bài
ca
đó,
người
ta
chỉ
muốn
nghe
giọng
ca
Minh
Cảnh.
Đây
thật
là
một
điều
mà
Minh
Cảnh
đã
“làm
khó”
cho
thế
hệ
nghệ
sĩ
sau
bởi
những
bài
nêu
trên
đều
là
những
bài
vọng
cổ
thuộc
hàng
tuyệt
tác.
Ở
đây
có
một
điều
đặc
biệt
nữa
cần
được
nhấn
mạnh :
giọng
ca
Minh
Cảnh
gắn
liền
với
sáng
tác
của
soạn
giả
Viễn
Châu.
Ta
thấy
rằng,
không
chỉ
có
Minh
Cảnh
là
nổi
tiếng
nhờ
bài
do
Viễn
Châu
sáng
tác,
nhưng
với
rất
nhiều
bài
làm
nên
tên
tuổi
Minh
Cảnh
mà
bên
trên
mới
liệt
kê
chỉ
được
một
số
bài,
thì
hầu
hết
đều
là
bài
của
Viễn
Châu.
Có
thể
nói
rằng,
sau
Út
Trà
Ôn,
Minh
Cảnh
là
người
thể
hiện
thành
công
nhiều
bài
vọng
cổ
do
Viễn
Châu
sáng
tác
nhất.
Tu
Là
Cội
Phúc:
hơn
nửa
thế
kỷ
“độc
tôn”
Trong
số
rất
nhiều
bài
để
đời
của
Minh
Cảnh,
có
thể
xem
hai
bài
sau
đây
là
nổi
tiếng
nhất:
Tu
là
cội
phúc
và
Võ
Đông
Sơ.
Năm
1961,
soạn
giả
Viễn
Châu
đã
cho
ra
đời
một
bài
vọng
cổ
Phật
giáo
mang
tên
Tu
là
cội
phúc.
Nội
dung
bài
ca
tập
trung
vào
hai
câu
:
Tu
đâu
cho
bằng
tu
nhà
Thờ
cha
kính
mẹ
hơn
là
đi
tu
Điều
này
rất
phù
hợp
với
triết
lý
Đại
Thừa
của
Phật
giáo,
vốn
có
ảnh
hưởng
sâu
rộng
ở
Việt
Nam,
và
đặc
biệt
là
phù
hợp
với
truyền
thống
hiếu
đạo
của
người
Việt.
Minh
Cảnh
đã
bất
tử
bài
ca
này
nhờ
vào
một
giọng
ca
“nhẹ
như
mây”
rất
hợp
để
thể
hiện
những
bài
ca
Phật
giáo,
nhờ
vào
nhịp
nhàng
điêu
luyện,
cách
nhấn
nhá
mềm
mại
vừa
phải.
Nghệ
sĩ
Minh
Cảnh
đã
thể
hiện
bài
ca
này
vào
năm
1961
với
sự
thành
công
rực
rỡ,
đến
mức
mà
thế
hệ
danh
ca
sau
ngại
không
dám
ca
bài
này.
Thậm
chí
đến
ngày
nay,
hễ
nhắc
đến
Tu
là
cội
phúc,
thì
người
mộ
điệu
lập
tức
nghĩ
ngay
đến
Minh
Cảnh.
Chứng
tỏ
rằng,
Minh
Cảnh
đã
ngự
trị
Tu
là
cội
phúc
từ
hơn
nữa
thế
kỷ
qua.
Đối
với
bài
Võ
Đông
Sơ
cũng
vậy,
giọng
ca
Minh
Cảnh
đã
trở
nên
“độc
quyền”
bài
hát
này
mấy
chục
năm
qua.
Đây
là
một
bài
vọng
cổ
thuộc
hàng
tiên
phong
trong
thể
loại
“tân
cổ
giao
duyên”
do
Viễn
Châu
khởi
xướng.
Bài
ca
này
nổi
tiếng
đến
mức
mà
hầu
như
người
nào
thích
nghe
vọng
cổ
đều
phải
biết.
Nội
dung
bài
ca
là
lời
vĩnh
biệt
của
tướng
Võ
Đông
Sơ
trước
phút
lâm
chung
trên
chiến
trường
sau
khi
trúng
tên
của
kẻ
thù.
Với
lối
ca
mềm
mại
và
uyển
chuyển,
lả
lướt,
Minh
Cảnh
đã
nhẹ
nhàng
đưa
vào
tận
tâm
hồn
người
nghe
mối
tình
sắc
son
và
lời
tạ
từ
thống
thiết
của
Võ
Đông
Sơ.
Điều
đặc
biệt
là
Minh
Cảnh
đã
xử
lý
bài
ca
này
một
cách
bi
hùng,
tức
đó
là
nỗi
buồn
của
một
danh
tướng
nên
nó
bi
nhưng
không
lụy.
Và
người
nghe
cũng
đã
cảm
nhận
được
điều
đó.
Khác
với
bài
Tu
là
cội
phúc,
bài
Võ
Đông
Sơ
lại
được
nhiều
nghệ
sĩ
thế
hệ
sau
của
Minh
Cảnh
thi
nhau
thể
hiện.
Thậm
chí
còn
có
những
nghệ
sĩ
“lấy
hơi”
Minh
Cảnh
để
ca.
Thế
nhưng,
như
có
một
phép
mầu,
giọng
ca
Minh
Cảnh
vẫn
đứng
vững
với
bài
Võ
Đông
Sơ,
và
đến
hiện
tài,
hễ
nhắc
đến
Võ
Đông
Sơ
là
nhắc
đến
Minh
Cảnh.
Bên
trên
chỉ
nói
đến
những
bài
vọng
cổ
mà
chưa
nhắc
đến
các
vở
cải
lương.
Giọng
ca
Minh
Cảnh
thật
sự
đã
để
đời
trong
nhiều
tuồng
cải
lương
đặc
sắc,
trong
đó
người
mộ
điệu
không
làm
sao
quên
được Mùa
thu
trên
Bạch
Mã
Sơn,
Dốc
Sương
Mù,
Hai
chiều
ly
biệt,
Bao
Công
tra
án
Quách
Què,
Máu
nhuộm
sân
chùa,
Cổ
xe
độc
mã…
Đến
đây
ta
có
thể
nói
rằng,
bằng
sự
bứt
phá
ngoạn
mục,
Minh
Cảnh
đã
mang
đến
cho
bài
vọng
cổ
một
trải
nghiệm
mới
là:
có
thể
ca
lả
lướt
lạng
bẻ,
tức
ca
theo
kiểu
nhiều
“hoa
lá”
trên
cái
nền
tảng
của
“chân
phương”.
Trường
hợp
của
Minh
Cảnh
cũng
giống
như
trường
hợp
của
Út
Bạch
Lan,
khi
Sầu
Nữ
đã
ca
theo
kiểu
« hoa
lá
cành »,
mềm
mại,
lả
lướt,
tạo
được
nét
riêng
đối
với
lối
ca
thiên
về
chân
phương
của
Đệ
nhất
nữ
danh
ca
Thanh
Hương.
Nếu
nói
rằng
Út
Trà
Ôn
là
chủ
soái
của
trường
phái
ca
thiên
về
chân
phương
bên
cánh
nam
nghệ
sĩ,
thì
Minh
Cảnh
là
chủ
soái
của
trường
phái
ca
thiên
về
hoa
lá. Và
đặc
biệt
hơn
hết,
một
điều
có
thể
được
xem
là
« vô
tiền
khoáng
hậu »
ở
Minh
Cảnh,
đó
là
một
giọng
hát
và
phong
cách
ca
« nhẹ
như
mây ».
Lê
Phước
Mã
an
toàn:
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Ý kiến bạn đọc