Đang truy cập : 143
•Máy chủ tìm kiếm : 3
•Khách viếng thăm : 140
Hôm nay : 25487
Tháng hiện tại : 1097684
Tổng lượt truy cập : 76913062
Trong đời nghệ sĩ, một lần được thế vai diễn của thần tượng chắc chắn sẽ là kỷ niệm khó quên trong sự nghiệp hóa thân với hàng trăm số phận. Nghệ sĩ Trung Dân đã có những khoảnh khắc đáng nhớ.
Còn nhớ lúc bé xíu, cô góp mặt cùng dàn diễn viên đoàn Thanh Minh với nghệ danh Juliette Nga, đóng đào con qua sự uốn nắn của kế phụ Năm Nghĩa về diễn, của nhạc sĩ Út Trọng về ca. Cô nghệ sĩ nhí này không bật sáng như những đàn chị Hoàng Vân, Ngọc Nuôi hoặc Ánh Hoa cùng thời. Giữa những năm 50, chữ Juliette được thay bằng chữ Thanh. Mười bốn tuổi, cô đóng đào nhí (tiểu thư Đạt Bích Lan) bên cạnh các diễn viên chính Út Trà Ôn - Út Bạch Lan trong vở "Cung Đàn Trên Sông Lạnh" của Thu An. Vai diễn này chẳng có gì đặc sắc, nhưng báo chí bắt đầu lưu ý đến cô. Đoàn Thanh Minh lúc ấy thanh thế ngày càng to, thường xuyên tổ chức đêm hát tổng hợp tài danh. Nghệ sĩ Kim Cúc ký hợp đồng chính thức hợp tác hữu hạn, đóng cặp với Út Trà Ôn. Cơ may đến với Thanh Nga khi được các nghệ sĩ tiền phong Năm Châu - Ba Vân điểm hoá, đặc biệt có cô Bảy Phùng Há dày công kèm cặp. Cô Kim Cúc khi mãn hợp đồng đoàn Thanh Minh đã "xuất chiêu" tôi luyện Thanh Nga vai Phà Ca trong vở "Người vợ không bao giờ cưới" của Kiên Giang, bên cạnh Kiều Mộng Long - Hữu Phước và Út Bạch Lan (vai Phà Ca lớp sau). Thanh Nga bỗng nhiên bật sáng, trở thành một hiện tượng gây làn sóng xôn xao bàn tán trong kịch giới, báo chí và quần chúng khán giả. Vở này được mở màn công diễn cả trăm xuất. Nhờ vai Phà Ca, Thanh Nga đã đoạt HCV đầu tiên của giải Thanh Tâm năm 1958 khi mới 16 tuổi. Cánh cửa triển vọng mới hé mở cho cô, nhưng dưới ánh mắt của lớp khán giả khó tính, cô vẫn còn khoảng cách nêu so với Thanh Hương, Út Bạch Lan là hai đàn chị đang nổi danh trên sân khấu cũng như hãng đĩa.
Cô cũng tự nhận vậy; và với bản chất hiền lành, khiêm tốn, chịu khó học hỏi, không ỷ lại vị thế là con của bà bầu chủ, cô đã không ngừng luyện tập, vừa học vừa hành, cùng chung sàn diễn với các bậc thầy trong những buổi hát hội. Vai nữ chính trong "Gió Ngược Chiều" (soạn giả Nguyễn Thành Châu viết theo Ruy Blas của Pháp); vai người vợ trẻ trong "Vợ và Tình" (soạn giả Nguyễn Thành Châu ), Kim Anh trong "Đời cô Lựu" (soạn giả Trần Hữu Trang), cô Loan trong "Đoạn Tuyệt" (soạn giả Duy Lân chuyễn thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nhất Linh), Điêu Thuyền trong "Phụng Nghi Đình" (soạn giả Mộc Quán), Thanh Nga đã hợp diễn với các nghệ sĩ tài danh khi đó như: Năm Châu, Ba Vân, Tám Vân, Phùng Há, Thanh Loan, Năm Sa Đéc, Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được... Qua đó, cô lãnh hội được nhiều điều quý báu để làm hành trang cho đời nghệ thuật. Một bước tiến dài! Người xem không thể quên được một Điêu Thuyền xuất sắc, vũ đạo nhuần nhuyễn bắt mắt, diễn xuất tuyệt diệu không bị lu mờ bởi Lữ Bố - Phùng Há oai phong tài tuấn và Tư Đồ - Ba Vân ngất ngưỡng cơn say (trong tỉnh) qua động tác hình thể lão luyện vào bậc thượng thừa. Lớp Lữ Bố hí Điêu Thuyền này đặc sắc đến nỗi tưởng chừng như không thể tái hiện được.
Cải lương Nam Bộ lúc ấy có nhiều trường phái: Bảy Cao - Mộng Vân với sân khấu "cắc bùm" (tuồng chiến tranh), Hương Mùa Thu, Kim Chưởng với dã sử, hương xa, Kim Chung với diễm tình... Riêng Thanh Minh rất gần với trường phái "thật và đẹp" của Năm Châu. Ban giám đốc đoàn biết cách chiêu hiền đài sĩ nên dàn kịch mục rất dồi dào kịch bản tầm cỡ. Đó là điều kiện tiên quyết, là bệ phóng góp phần đưa Thanh Nga đến đỉnh vinh quang.
Tính từ khởi điểm đoạt HCV Thanh Tâm đến 1975, tài năng Thanh Nga phát triển vừa nhanh vừa ổn định. Và cô đã ung dung ngồi cùng chiếu với đàn chị Út Bạch Lan, Thanh Hương, Ngọc Nuôi... Xứng đáng là cánh chim đầu đàn của những HCV Thanh Tâm kế tiếp như: Bích Sơn, Ngọc Giàu, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Nguyệt, Thanh Thanh Hoa...
Xuân Tự trong "Áo Cưới Trước Cổng Chùa", Xuân Lan trong "Tiếng Hạc Trong Trăng", Dạ Lan Thanh trong "Mỹ Nhân và Loạn Tướng", Lệ Hoa trong "Hai Chuyến Xe Hoa" đã giúp Thanh Nga chinh phục hoàn toàn những khán giả khó tính nhất. Và "Bông Hồng Cài Áo", "Người Đẹp Bạch Hoa Thôn", "Hoa Rụng Đêm Khuya"," Con Gái Chị Hằng", "Tấm Lòng của Biển", "Phu Tử Tòng Tử"... đã khẳng định cô là ngôi sao lớn trong SKCL.
Các hãng đĩa, hãng băng săn đón, các hãng phim mời mọc, cô đã dạo chơi thành công với hàng chục bộ phim nhựa trong đó có hai vai chính chuyển thể cải lương, vở "Đôi Mắt Người Xưa" (tiểu thuyết của Ngọc Linh), "Hai Chuyến Xe Hoa" (soạn giả Thái Thụy Phong). Đặc biệt hơn, cô đã từng xuất ngoại sang Ấn Độ đóng năm bộ phim truyện (báo chí thời ấy đưa tin).
Qua giải phóng, "Tiếng Trống Mê Linh", "Bên Cầu Dệt Lụa" và "Thái hậu Dương Vân Nga" đã ghi thêm bản thành tích vốn đã khá dài các vai diễn để đời của Thanh Nga.
Thành công của cô không chỉ riêng ở lĩnh vực diễn xuất. Người viết muốn nói đến giọng ca. Thanh Nga được trời ban cho một chất giọng thổ bi ai mà đài trang sang cả, truyền cảm lạ lùng, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Thanh Kim Huệ... có những giọng ca "phó bản", chớ Thanh Nga thì chưa ai nhại giọng được. Giọng ca rất riêng là lợi thế tối ưu hỗ trợ đắc lực cho diễn xuất và tạo thế quân bình chất lượng diễn - ca. Cô ca thật chân phương, không màu mè kiểu cách, ca mà như nói, như lời tâm sự, vậy mà thuyết phục vô cùng. Được vậy là cô cần mẫn tập dượt với thầy Út Trọng mỗi khi tập vai mới trước lúc khai trương ra mắt khán giả. Mấy câu vọng cổ lúc Xuân Tự rời chùa về nhà dự lễ thành hôn của Tô Châu - Phương Thành là dấu ấn ghi đậm độ sâu lắng trưởng thành của giọng ca Thanh Nga. Không dày công tập luyện, đâu dễ thành công đến thế. Nếu Út Bạch Lan đặc sắc với bản Sương chiều, Phụng hoàng thì Thanh Nga rất độc đáo qua bài
Dân gian có câu "Nhất nghệ tinh..." một nghệ sĩ cải lương có ngoại hình, nếu chỉ ca hay diễn giỏi thì xem như chưa đủ yếu tố để "nghệ tinh". Còn đài từ nữa! Đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong quá trình hành nghề của nghệ sĩ kịch nói và cả cải lương. Đài từ phải gồm các hợp chất: chuẩn (tròn vành rõ chữ, chân phương), rõ ràng (âm vực rộng càng tốt), truyền cảm. Các nghệ sĩ bậc thầy lúc truyền nghề cho Thanh Nga đã hết lòng uốn nắn, thị phạm, nhất là cô Bảy Phùng Há. Sự thông minh, tính cần cù lãnh hội, kinh nghiệm tích lũy khi hành nghề giúp Thanh Nga có một bản lãnh cao khi "diễn thoại". Câu văn của tác giả viết chỉ ở dạng khá, vậy mà qua đài từ Thanh Nga với cách nhấn nhá, ngắt nghỉ, bỗng trầm theo tình huống kịch, bỗng trở nên trang nhả, gợi cảm, huống gì những câu có giá trị văn học, sức thu hút thính giác càng cao. Hãy nghe lại hai câu vai Trưng Trắc và Quỳnh Nga , ta kiểm chứng được điều ấy.
Một vở hát bất hủ, ắc hẳn nhiều thế hệ diễn viên thủ vai. Và người xem như hụt hẫng khi lớp trẻ diễn viên ca cũng hay, diễn cũng giỏi, nhưng cớ sao không gây rung động bằng "người xưa"? Có thể, do họ diễn thoại còn non vì đài từ. Kỹ thuật ca cải lương rất cần sự chuyển đổi từ diễn thoại đến vô câu ca sao cho uyển chuyển trơn tru mới gây nên khoái cảm cao cho khán giả trong các tình huống bi thương hay hùng tráng của kịch bản. Có thể nói, hầu hết những tên tuổi lớn của sân khấu cải lương đã làm rất tốt điều này, trong đó có Thanh Nga.
Như vậy không khó để nhận định rằng NS Thanh Nga nổi danh lớn không do quảng cáo, cũng không phải là vì cô là con gái bầu gánh mà chủ yếu nhờ khổ luyện, trong đó có một phần do thiên phú và may mắn.
Mã an toàn:
Trong đời nghệ sĩ, một lần được thế vai diễn của thần tượng chắc chắn sẽ là kỷ niệm khó quên trong sự nghiệp hóa thân với hàng trăm số phận. Nghệ sĩ Trung Dân đã có những khoảnh khắc đáng nhớ.
Ý kiến bạn đọc