Bản Sắc Dân Tộc - cailuongvietnam.com

Tin Tức Tìm Hiểu Nghệ Thuật

DUY TRÌ TRANG WEB CLVN

Tuồng lịch sử Việt Nam trên sân khấu cải lương ?

Thứ hai - 13/03/2017 13:17

Vở Núi Liễu Sông Bằng

CLVNCOM - Nghệ thuật sân khấu là một loại hình nghệ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác tổng hợp lại như văn, thơ, nhạc, múa, hội họa, kiến trúc... những thành tựu của các ngành nghệ thuật này góp phần phát triển ngành nghệ thuật sân khấu cải lương, vì vậy muốn tìm hiểu trong quá khứ sân khấu cải lương hoạt động như thế nào, ta dò theo nền văn học nghệ thuật và bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó.
Tuồng lịch sử VN trên sân khấu cải lương?


Tuồng lịch sử Việt Nam trên sân khấu cải lương ?

Góp ý với bạn HQ-tkd Toulouse:

Nghệ thuật sân khấu là một loại hình nghệ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác tổng hợp lại như văn, thơ, nhạc, múa, hội họa, kiến trúc... những thành tựu của các ngành nghệ thuật này góp phần phát triển ngành nghệ thuật sân khấu cải lương, vì vậy muốn tìm hiểu trong quá khứ sân khấu cải lương hoạt động như thế nào, ta dò theo nền văn học nghệ thuật và bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó.




Năm 1867, Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Đề đốc G. Ohier ra nghị định cưỡng bách dùng chữ quốc ngữ la tinh trong các giấy tờ chính thức như thông tư, thông cáo, công báo và khế ước giữa dân với dân, giữa cơ quan nhà nước với dân. Bãi bỏ các cuộc thi Hương, mở trường dạy chữ Quốc ngữ La tinh. Cho đến cuối thế kỷ 19, ở Sài Gòn và trên toàn cõi Lục tỉnh, tiếng Pháp và chữ Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức trên mọi lãnh vực hoạt động xã hội, đặc biệt trong văn hóa và khoa học thay cho chữ Hán.

Ai cũng biết là người Pháp chỉ xem chữ quốc ngữ như một công cụ giao tế phổ thông giữa nhà cầm quyền Pháp và dân chúng, giữa dân chúng với nhau ( thông tri, đơn từ, thư tín, khế ước ) nhưng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, dân ở Saigon và lục tỉnh đọc Đại học, Trung dung, Kinh Thi, Minh Tâm Bửu giám bằng chữ quốc ngữ; người dân Việt Nam đọc Truyện Kiều, Nhị độ mai, Đại Nam quốc sử diễn ca, Lục Vân Tiên bằng chữ quốc ngữ, đọc bao nhiêu chuyện dịch từ chữ Nôm, chữ Hán ra thành quốc ngữ, trong số đó có gần 30 dịch giả dịch và in sách 70 bộ truyện Tàu có những bộ nổi tiếng như Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Phong kiếm xuân thu, Ngũ hổ bình Tây, Tiết Nhơn Quí chinh đông, Tiết đinh San chinh tây, La Thông tảo bắc, ...

Ngoài các truyện Tàu còn có tuồng hát bộiđược in ra:

-tuồng San Hậu của Lê Nhựt Ánh, 1901, Imp. Claude et Cie.
- San Hậu của Phụng Hoàng San Thành , 1903, Imp. Legros. -tuồng Trần Trá Hôn của Đinh Thái Sơn, Imp. de l' Union, 1915.
-tuồng Tam Quốc của P. Michel dịch, Imp. Ménard et Ray, 1905.
-tuồng Ngũ Viên Thiệu bị tên của Nguyễn Thời . Nhà in Bảo Tồn Saigon 1931. ....

Trong bảng thư tịch của giáo sư Nguyễn Văn Y in trong sách Địa Chí Văn Hóa thành phố Saigon có bảng liệt kê hàng trăm tuồng hát bội được in thành sách từ năm 1901 đến năm 1937, các tuồng hát nầy được các Ban hát bội miền Nam dựng thành tuồng: Phụng Nghi Đình, Huê Dung Đạo, Cầu Hôn Giang Tả, Triệu Tử đoạt Ấu chúa, Đơn đao phó hội, Tam Khí Châu Du, Quan Công thất thủ Hạ Bì, Trụ Vương - Đắc Kỷ, Hoàng Phi Hổ quy Châu, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo, Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, Ngũ Viên Thiệu bị tên, Ngũ biến báo phu cừu, Đào Tam Xuân loạn trào, Trảm Trịnh Ân, Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê, Thần nữ dâng ngũ linh kỳ, Xử án Bàng Quí Phi, Địch Thanh ly Thợn, Đãi yến Đoàn Hồng Ngọc, Mộc Quế Anh dâng cây…

Nghệ sĩ Thành Tôn , Minh Tơ, Thanh Tòng, Thanh Bạch, Bữu Truyện lấy các tuồng hát bội đó viết lại thành tuồng cải lương tuồng cổ; các nghệ sĩ Đức Phú, Phượng Mai, Đức Lợi, Bạch Mai, Bo Bo Hoàng, Thanh Thế, Vũ Linh cũng lấy các tuồng Tàu đó thêm bài ca Đài Loan thành tuồng Hồ Quảng sau khi thể nghiệm thành công vở Hồ Quảng Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài.

Trong khi đó sân khấu cải lương, từ khi mới được khai sinh năm 1917, soạn giả Trương Duy Toản soạn tuồng Lục Vân Tiên ( tuồng thơ truyện VN )diễn trên sân khấu đoàn hát Thầy Năm Tú, Năm 1918, hai soạn giả Đặng Thúc Liêng và Nguyễn Viên Kiều soạn tuồng Pháp Việt Nhứt Gia ( sau đổi tựa Gia Long tẩu quốc, tức tuồng sử Việt Nam).

Đến năm 1925, soạn giả Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền mới đưa tuồng Phụng Nghi Đình hát trên sân khấu đoàn Tập Ích Ban .

.


Từ năm 1924 đến năm 1926, soạn giả Năm Châu sáng tác các vở cải lương tuồng Tàu: Tái sanh Duyên, Mổ Tim Tỷ Can, Thôi Tử Thí Tề Quân, Võ Tòng sát tẩu, Anh hùng náo tam môn nhai, Mộc Quế Anh dâng cây. Sau đó, ông viết tuồng lấy cốt truyện từ các truyện kiếm hiệp của Pháp( Bằng Hữu Binh Nhung – les trois mousquetaires của Alexandre Dumas; Túy Hoa Vương Nữ - Marie Tudor của Victor Hugo; Giá Trị và Danh Dự - Le Cid của Corneille; Tơ Vương đến thác – La dame aux camélias tức Trà Hoa Nữ; Gió Ngược Chiều – Ruy Blas của Victor Hugo; Hàm Lệ báo phụ cừu [ Hamlet của Shakespeare) , Miếng Thịt Người – Le marchand de Venise.)

Từ năm 1940 đến 1945, chỉ có đoàn Phụụg Hảo, đoàn Tiến Hóa là hai đoàn chuyên hát tuồng theo lối Quảng Đông với cốt truyện Tàu như Phụng Nghi Đình, Mạnh Lệ Quân, Xử án Bàng Quí Phi, Mộc Quế Anh dâng cây…Trong lúc đó có hơn hai chục đoàn hát cải lương tuồng hội VN( Đời lựu, Hoa rơi cửa Phật, Men Rượu Hương Tình, Lở Tay Trót đã Nhúng Chàm ) hoặc tuồng truyện cổ VN( Con Tấm con Cám, Thoại Khanh Châu Tuấn, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh Thông, Lưu Bình Dương Lễ, Trần Minh khố chuối) nhiều đoàn hát khác hát tuòng Hội phóng tác theo tiểu thuyết của ông Hồ Biểu Chánh tuồng Kiếm hiệp La của soạn giả Mộng Vân, Sáu Hải ( Long Hình quái khách, Người nhạn trắng Cánh Bườm đen, Vân Công Chúa….),

Dưới thời Pháp thuộc, trường học, từ lớp ba (élémentaire ) đến lớp nhứt ( supérieur ) nhà trường bắt học sinh phải nói tiếng Pháp trong trường. Từ Tiểu học đến Trung học, sử ký và điạ dư dạy ở trường là sử ký - địa dư của nước Pháp. Đến năm 1946, các trường Tiểu Học mới có chương trình dạy học bằng tiếng Việt và chữ quốc ngữ. Ở Saigòn chỉ có một nhà bán sách Albert & Portail ở đường Catinat, không thể nào mua được sách Lịch Sử Việt Nam bằng chữ quốc ngữ. Sau đó có nhà sách Khai Trí nên chúng tôi mới có quyển sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim kể từ Thượng cổ thời đại đến Cận kim thời đại ( kể từ nhà Nguyễn cho dến đầu thế kỷ 20.)

Bộ Thông Tin của Pháp kiểm duyệt gắt gao những tuồng xã hội Việt Nam, tuồng lịch sử và dã sử không được viết có nhân vật người Pháp hoặc người từng cộng tác với Pháp.( các tuồng bị cấm Hỏa Hồng Nhật Tảo của Lê Minh – Hoàng Thái Sơn, vở Anh Chị Ăn Mày của s/g Năm Nở, vở Cô Giang Nguyễn Thái Học của Phương Linh ( Nguyễn Phương và Thiếu Linh ).

Năm 1945 đến năm 1954, chiến tranh Việt – Pháp sôi động. Tại các thành phố lớn hoặc nơi chợ tỉnh, chợ Huyện, công tác thành và ban ám sát của Việt Minh liệng lựu đạn các quán rượu, dancing, nơi rạp hát, nơi tụ tập đông người nên nhièu gánh hát mất khán giả, phải rã gánh. Thời kỳ này ít có tuồng mới được sáng tác ra, các gánh hát nhỏ hát ở đình, miếu, hát các trích đoạn tuồng Tàu trong các dịp cúng Kỳ Yên.

Hòa bình được lập lại, từ năm 1954 đến năm 1965, sân khấu cải lương với hơn 60 đoàn hát từ Cà Mau đến sông Bến Hải đã diễn không dưới 40 tuồng lịch sử và dã sử Việt Nam, hàng chục tuồng cổ tích Việt Nam và hàng mấy trăm tuồng xã hội cận đại Việt Nam

Tuồng lịch sử sử Việt nam:

1. - Đất Việt của Người Việt..... đoàn Thanh Minh bầu Nghĩa.
2. - Biên thùy nổi sóng.............. ""
3. - Đồ Bàn di hận .................... ""
4. - Tình tráng sĩ ....................... ""
5. - Lửa hờn.................... ""
6. - Tiếng sấm Hà Hồi .............. ""
7. - Nẽo tắt Hoành sơn ......... Đoàn Thanh Minh Thanh Nga Bầu Thơ
8. - Áo gấm khôi nguyên.......... ""
9. - Hồi trống Vân Lâu ........... ""
10. - Ngược Dòng sông Lổi......... ""
11. - Núi Liễu sông Bằng ............ ""
12. - Đường về Lam Sơn ............ ""
13. - Ngược sóng Phú Lương ..... ""
14. - Cô Giang - Nguyễn Thái Học... ""
15. - Tiếng trống Mê Linh................ Đoàn Thanh Nga
16. - Bên Cầu Dệt Lụa...................... ""
17. - Muôn Dặm Tìm Chồng............ ""
18. - Áo Cưới Trước cổng chùa........ ""
19. - Thái Hậu Dương Vân Nga ....... ""
20. - Bên Cầu Vọng Thê................... Đoàn Kim Chung Bầu Long
21. - Khói cỏ Quê Hương................... ""
22. - Hỏa Hồng Nhật Tảo .................. ""
23. - Giai nhân và tráng sĩ............. ""
24. - Gánh cỏ sông Hàn.............. Đoàn Hương Mùa Thu Bầu Thu An
25. - Con cò Trắng ............................ ""
26. - Lá của rừng xanh.................... ""
27. - Tiếng Trống Sang Canh....... Đoàn Thủ Đô Bầu Ba Bản
28. - Sầu Quan Ải .............................. ""
29. - Nguyễn Trãi Biệt Đông Quan. Đoàn Phước Chung...Bầu Tám Kiết
30. - Núi Rừng Lên Tiếng ................. ""
31. - Lá Chắn Biên Thùy...... Đoàn Huỳnh Long ........Bầu Ngọc Hương.
32. - Hùm Thiêng Yên Thế ........... ""
33. - Lam Sơn khởi nghĩa .............. ""
34. - Câu Thơ Yên Ngựa ........... Đoàn Minh Tơ ............. Bầu Minh Tơ
35. - Tô Hiến Thành Xử Án .......... ""
36. - Ngọc Hân Công Chúa ............ Đoàn Trần Hữu Trang
37. - Rạng ngọc Côn Sơn ……….. `````
38. - Bùi Thị Xuân ………………. ````
39. - Thái Hậu Dương Vân Nga ( s/g Hoa Phượng – Hoàng Viêt, ) 40 . - Chim Việt Cành Nam …….. ```` 41. - Lấp Sông Gianh ………… Đoàn Kim Thoa.
42. - Đường lên xứ Thái …………… Đoàn Việt Hùng – Minh Chí

Tôi không nhớ đoàn hát nào đã diễn các tuồng Cành Đào Thăng Long, Lê Lai Cứu Chúa, Thủ Khoa Huân…. .
Ngoài các tuồng lịch sử, sử kể trên, hầu hết các truyện thơ, truyện cổ tích Việt Nam: Con Tấm con Cám, Thạch Sanh Lý Thông, Thoại Khanh Châu Tuấn, Trần Minh khố chuối ( tức Bên cầu dệt lụa, Lưu Bình Dương Lễ )đều được dựng thành tuồng hát trên sân khấu cải lương.

Như vậy, chúng ta thấy tuồng cải lương lịch sử, dã sử Việt Nam được sáng tác và biểu diễn rất nhiều nhứt là trong hai thập niên 60, 70 thế kỷ trước, tuy nhiên khán giả vẫn cảm giác là sân khấu 
cải lương diễn quá nhiều tuồng Tàu vì người ta nhớ chuyện tuồng Tàu, các nhân vật Tàu mà không nhớ rõ cốt truyện tuồng dã sử Việt Nam. Phải công nhận là các truyện Tàu viết hay hơn các tiểu thuyết dã sử Việt Nam.
 
Trong các thập niên 10, 20, 30, 40 của thế kỷ trước, người miền Nam thích đọc truyện Tàu vì họ thấy các nhân vật quan trọng của truyện có những đức tính cố hữu mà họ được gia đình và nhà trường giáo dục cho, đó là Trung Hiếu, Tiết Nghĩa, Trí Dũng, Tín Lễ, Cương Trực, Anh Hùng. Trong truyện Tàu, nhân vật chánh có những cặp đối kháng quyết liệt, tạo ra nhiều tình tiết gay cấn, hấp dẫn và diễn đạt được cá tính sống động của từng nhân vật. Đó là La Thành - Đơn Hùng Tín, Tần Cối - Nhạc Phi, Bàng Quyên – Tôn Tẫn, Tào Tháo – Châu Du…Tính cách điển hình của nhân vật truyện Tàu quen thuộc với khán giả đã đi vào thành ngữ, vào cách nói chuyện của dân bình thường Việt Nam : Nóng như Trương Phi, Trung nghĩa như Quan Công, Khóc như Lưu Bị, Gian manh như Tào Tháo, lẳng lơ như Điêu Thuyền, Mải quốc cầu vinh như Bàng Hồng Tôn Tú, Chuyện tuồng lịch sử hay dã sử Việt Nam thì chỉ có xăm lăng và chống xăm lăng, cá tính nhân vật tuồng không đa dạng, cốt truyện không gay cấn, khán giả coi tuồng lịch sử, dã sử Việt Nam không thấy hấp dẫn, không thích thú.

Cả mấy năm nay cải lương không có sáng tác mới, các nhóm nghệ sĩ hát các trích đoạn cải lương tuồng Tàu và Hồ Quảng để kiếm sống, điều này càng làm cho thức giả nghĩ là không có tuồng viết về danh nhân hay lịch sử Việt Nam.

Thêm một lý do về thời cuộc khiến cho nghệ thuật sân khấu cải lương ngày một phải bị mất đi: Từ khi được khai sinh năm 1917 đến năm 1930 gặp khủng hoảng kinh tế toàn cầu, VN cũng bị ảnh hưởng, dân không có cơm ăn áo mặc, tiền đâu mua vé xem hát? Cải lương lận đận vài năm. Năm 1939, chiến tranh Trung Nhật rồi Thế chiến thứ 2, Xã hội VN phân hóa dữ dội, năm 1940 Nhật vô Đông Dương, Đồng Minh dội bom xuống các thành phố lớn có quân Nhật chiếm đống, sân khấu cải lương ngoắc ngoải…Năm 1943, Hà Nội và miền Bắc bị nạn đói, chết hơn hai triệu người, Cải Lương sống mạnh được sao ? Rồi tới 1945 đến 1954, chiến tranh Việt – Pháp, trong các thành phố lớp bị Tây ruồng bố, lớp bị Việt Minh quăng lựu đạn, công tác thành ám sát, xã hội bất ổn 9 năm, các gánh hát Cải Lương rã lên rã xuống. Chỉ được mấy năm thời Cộng Hòa 1954 đến 1968, sau cái Tết Mậu Thân 68 rồi mùa Hè Đổ lửa 1972, kế đến ngày 30 tháng 4 đen, Cải lương thành cái loa tuyên truyền theo định hướng XHCN, chết lần chết mòn cho tới chết tiệt lúc nào không ai hay !

Phải chăng đây do khiến cho khán giả tưởng sân khấu cải lương không tuồng lịch sử hay sử Việt Nam.

Già quá rồi, nghĩ về dĩ vãng mệt quá, không biết viết có gì sai sót, xin các bạn thông cảm.

Soạn giả Nguyễn Phương 3 / 2017



Image

Nguồn tin: Hanh 31 - CLVNCOM

Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://www.cailuongvietnam.com là vi phạm bản quyền
Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Từ khóa:nghệ thuật, sân khấu, loại hình, tổng hợp, văn thơ, hội họa, kiến trúc, thành tựu, góp phần, phát triển, tìm hiểu, quá khứ, hoạt động, như thế, văn học, lịch sử, sản sinh

Bình luận mới

Gửi bình luận của bạn

Tên của bạn Email Nội dung Mã an toàn

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

DUY TRÌ TRANG WEB CLVN