Đó là kho tàng truyện cổ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ, câu đố và nhạc lễ,
hát cúng quyện với hệ thống nhạc cụ đa dạng, độc đáo. Ca múa nhạc dân tộc Chăm
phản ánh khá rõ nét cách nhận thức, quan niệm, thẩm mỹ, thể hiện tình cảm, sự
tưởng nhớ của mình đối với các bậc tiền nhân đã có công xây dựng quê hương đất
nước, đem sự bình yên cho dân làng, hay sự sùng bái một hoặc vài vị vua được
thần hóa.
Xuất phát từ niềm tin vạn vật hữu linh, người Chăm có tín
ngưỡng đa thần. Những ngọn núi, dòng sông, cửa biển, cây cổ thụ… đều được họ xem
là có linh hồn, có khả năng phù hộ độ trì hoặc có thể đe dọa cuộc sống của con
người. Để được may mắn, bình an, được mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa, tôm
cá đầy khoang, con đàn cháu đống… họ tôn thờ các vị thần linh như thần núi Patau
Cơk, thần sông Patau Ia, thần biển Pô Riyak, thần mây, thần mưa, sấm chớp...
Và múa chính là tiếng nói của họ đến với thần linh, tất cả những mong muốn của
họ được gửi đến thần linh qua những điệu múa. Trong sinh hoạt đời sống hằng
ngày, người Chăm tạo ra những điệu múa mô phỏng những hình ảnh rất gần gũi với
đời sống sinh hoạt hằng ngày của mình như: đi biển, đi lấy nước, chống thú
dữ…
Theo thống kê, người Chăm có khoảng 80 điệu múa và tương ứng với từng
điệu múa là 80 vị thần của họ. Đối với người Chăm, múa rất quan trọng. Múa tạo
không khí linh thiêng, vui tươi, sinh động cho lễ hội.
Múa dân gian Chăm
tuy có nhiều điệu múa khác nhau, nhưng nhìn chung có bốn điệu múa chính có mặt
xuyên suốt trong nghệ thuật múa. Bốn điệu múa hay bốn động tác được người Chăm
sử dụng phổ biến là: Biyên, Kmân, Mrai, Chron. Sau này những điệu múa trên đã
được nâng cao và hình thành nên những điệu múa như: Patra, Chaligia. Và cho đến
ngày nay là điệu Biyên, điệu Chaligia, điệu Patra, điệu Chron, những điệu múa
được sử dụng nhiều nhất trong múa Chăm.
Theo truyền thuyết của người
Chăm, ngày xưa dưới trần gian đầy rẫy ma quỷ, thú dữ… hoành hành cuộc sống con người. Thiên hoàng Pô Kuk sai con gái là Pô Ina Nưgar xuống
trần gian để xây dựng xứ sở Chăm và tạo sự sinh tồn của người Chăm. Bà đã bốc
bốn vì tinh tú và cho nở ra bốn con thượng cầm là chim công (Biyên), điểu cầm
(Kmân), gà lôi (Mrai) và gà tây (Chron) để cùng các nàng tiên cưỡi xuống trần
gian.
Khi xuống đây bà đã chỉ cho người Chăm biết trồng dâu nuôi tằm,
trồng lúa, dệt vải, dạy nhân dân chống lại thú dữ… tạo nên cảnh quốc thái dân an
cho người Chăm. Khi nhìn những con chim bay lượn rất đẹp, người Chăm đã bắt
chước các động tác của chim để sáng tạo bốn động tác mang tên bốn loài chim
này.
Múa dân gian Chăm, còn gọi là múa cộng đồng, thường diễn ra vào các
ngày lễ đầu năm, đầu mùa. Những điệu múa đặc trưng là: đóa pụ (có nghĩa là đội
nước, khi múa, những cô gái đội một cái bình trên đầu - đội đầu là một hình thức
vận chuyển phổ biến của người Chăm), múa quạt, múa khăn, múa trống paranưng, múa
roi, múa chèo thuyền. Múa chèo thuyền được coi là điệu múa lâu đời nhất của
người Chăm, thể hiện sinh hoạt lao động vùng biển của con người.
Đa phần
các điệu múa của người Chăm đều gắn liền với lễ hội, mà hệ thống lễ hội của
người Chăm thì vô cùng phong phú. Mỗi điệu múa chứa đựng những nội dung khác
nhau, nhưng đều phản ánh ước vọng của người Chăm trước thần linh, thân tộc,
thiên nhiên và cộng đồng. Họ mong sao cho mưa thuận gió hòa, mùa màng được bội
thu, cây cối tươi tốt, con cháu ấm no, khỏe mạnh, hạnh phúc, được sống yên ổn
làm ăn và thờ phụng tổ tiên.
Không chỉ gắn bó với lễ hội, múa dân gian
Chăm còn gắn liền với những dịp trọng đại của gia đình như cưới xin, khánh thành
nhà... Điều đặc biệt là múa dân gian Chăm hầu hết là múa có đạo cụ như: khăn,
roi, trống, quạt... và dựa vào đạo cụ mà gọi tên cho từng điệu múa.
Tất
cả các điệu múa này vẫn còn tồn tại trong cộng đồng Chăm như một hình thái sinh
hoạt lễ hội, và theo thời gian, chúng được cách điệu để đưa lên sân khấu. Nghệ
thuật múa dân gian Chăm đang giữ một vai trò quan trọng trong việc xây dựng đời
sống tinh thần trong cộng đồng người Chăm./
Bùi Hửu Cường Tổng hợp
Tác giả bài viết: tuyetmai
Nguồn tin: Bùi Hửu Cường