Kiên Giang, Nguyễn Phương năm 1962
CLVNCOM - Ngày 20 tháng 6 vừa qua, trong chương trình văn nghệ của Đại Hội Tuổi Vàng Rồng Vàng, bác sĩ Đào Bá Ngọc, Hội trưởng Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Việt Nam vùng Montréal, ca góp vui bài« Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím », thơ của cố thi sĩ Kiên Giang, cố nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc. Giọng ca của bác sĩ Đào Bá Ngọc rất êm, rất hay khiến tâm hồn tôi lâng lâng bay bỗng về vùng trời quá khứ, tưởng nhớ người bạn thân thiết thuở xưa: « cố thi sĩ Kiên Giang », chàng thi sĩ gàn đi lạc vào giòng sân khấu.
Kiên Giang - Hà Huy HàTrong khi tôi mơ màng nghĩ đến chuyện tình thơ gởi cho cô gái ngoan đạo của thi sĩ Kiên Giang, bỗng nghe con gái của một bạn lão niên nói :«
Bác Nguyễn Phương ơi, mấy tháng trước đây, bác có viết trên tờ Thời Báo một bài về thân thế và một số đoạn thơ tiêu biểu của cố thi sĩ Kiên Giang, Bác chỉ ghi một vài đoạn thơ ngắn. Tụi cháu muốn biết trọn bài thơ « Hoa trắng thôi cài trên áo tím » và chuyện tình của thi sĩ Kiên Giang với cô gái xóm đạo, người yêu trong mộng của Kiên Giang, bác biết thì viết cho chúng cháu, nghe bác !»Thi sĩ Kiên Giang tên thật là Trương Khương Trinh, sanh ngày 17 tháng 2 năm 1929 tại Xẻo Đước, làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá. Năm 1954 anh lên Saigòn viết cho các tờ nhật báo Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Lẻ Sống… Năm 1955, Kiên Giang nổi tiếng là thi sĩ có nhiều bài thơ hay, lời thơ mộc mạc, rất nên thơ, rất diễm tình. Chịu ảnh hưởng của thi sĩ Nguyễn Bính nên thơ của Kiên Giang có nhiều câu như ca dao miền Nam :Ong bầu vờn đọt mù uLấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.Đói lòng ăn nửa quả simUống lưng bát nước đi tìm người thương.Về « Người Mẹ » trong thi ca, Kiên Giang đã dựng lên những tuyệt tác về « Mẹ » đậm đà tình cảm và đầy chất thơ :
Nhớ mùa cau trầu trong vườn cũMẹ quét lá vàng ủ lấy phânKhói trắng lên trời như tóc bạc Con ngỡ khói tóc quyện mây Tần.Chiều nay dừng gót trên bờ biểnNhìn sóng bạc dầu mây trắng trôiCon ngỡ khói vườn hay tóc MẹBay tìm con, lạc bước giữa đường đời.Về tình yêu đôi lứa, Kiên Giang có nhiều bài thơ được các bạn trẻ đang yêu mượn lời thơ ngâm nga để giải tỏ nỗi lòng : Bài thơ «
Tiền và lá » kể lại một chuyện tình buồn của một đôi trai gái quen nhau từ thơ ấu, cùng lớn lên và tình yêu nhen nhúm trong lòng chàng trai… Hồi bé thơ, anh hay rủ em cất nhà chòi bên bờ giếng, anh lầy đất nắn tượng người để bán, em nhặt lá vàng rơi làm tiền để mua tượng. Khi lớn lên, em phát hiện ra rằng tiền không phải là lá. Ngày xưa em đã dùng lá để mua tượng hình nhân của anh nắn, còn bây giờ em bị người ta dùng tiền thật mua mất rồi.
Tiền không là lá em ơi !Tiền là giấy bạc của đời in ra.Người ta giấy bạc đầy nhà,Cho nên mới được gọi là chồng em.Nhớ em, những buổi chiều hôm,Anh gom lá đốt khói lên tận trời.Thi sĩ Kiên Giang suốt đời lận đận, không được hưởng trọn vẹn hạnh phúc gia đình, năm 1965, hai vợ chồng xa nhau, anh bày tỏ nổi niềm :
Bao chiều tàu lại tàu quaKhói tàu vơ vẩn xót xa tiếng còi.Khi nhìn khói quyện mây trời Ngỡ người vợ cũ về nơi chân thềm.Kiên Giang có một mối tình, tuy không thành duyên chồng vợ nhưng tình yêu đó không phai và thủy chung hơn năm mươi năm dài. Và tình yêu đó được sống mãi với đời qua bài thơ bất hủ của anh :
« Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím » nhạc sĩ tài hoa Huỳnh Anh phổ nhạc thành bài ca, được các ca sĩ thời danh Phương Dung, Thanh Tuyền, Thanh Nga, Như Quỳnh…ca trên Đài phát thanh. Hãng dĩa Continental thu âm và phát hành dĩa nhạc trên toàn quốc và ở hải ngoại.
Trước đây, bạn bè nghĩ là Kiên Giang dựa vào một chuyện tình tưởng tượng, dựng ra một cô gái mơ hồ nào đó, tạo ra hình tượng người yêu để sáng tác ra bài thơ « Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím », nhưng đến năm 2008 , nhân dịp mừng sinh nhật 81 tuổì, tổ chức tại Trung Tâm Văn Hóa Phú Nhuận, Kiên Giang - Hà Huy Hà mới công bố bức di ảnh của người yêu cũ.Kiên Giang và di ảnh người yêu xưaNăm 1942, Trương Khương Trinh ( tên khai sinh của Kiên Giang – Hà Huy Hà ) học tại trường Tư thục Trung Học Lê Bá Cang - Saigon, nhưng vì quá nghèo, anh phải chuyển về học ở Cần Thơ cho gần gia đình để tiện việc gởi tiền ăn ở trọ và tiền học phí. Tại Cần Thơ, học trường Tư thục Nam Hưng, cậu Trinh gặp cô bạn đồng lớp: cô Nguyễn Thúy Nhiều. Cô Thúy Nhiều là học sinh giỏi môn toán, cậu Trinh giỏi môn văn, hai bạn học gần gủi nhau, cùng trao đổi bài vở và giúp nhau môn học giỏi nhất của mình.
Khi nhà trường tổ chức làm tờ báo học sinh của trường lấy tên báo « Ngày Xanh » trò Trinh được giao cho nhiệm vụ biên tập bài vở và trình bày, trang trí, trò Thúy Nhiều có chữ viết đẹp nhất trường, được phân công cho chép bài vở tờ báo. Đã mến nhau từ thuở ban đầu lại gần gũi nhau trong việc chung lo cho tờ báo, như lửa gần rơm, hai bạn trẻ đã âm thầm cảm mến nhau, một tình yêu lặng lẻ ươm mầm. Thế nhưng tình yêu đó giống như hai lối mộng, đi song song nhau mà không có một giao điểm nào để gặp nhau.
Cô Thúy Nhiều rất đẹp với khuôn mặt thanh tú, mái tóc dài buông xỏa bờ vai. Mỗi sáng chúa nhựt Thúy Nhiều đi xem lễ nhà thờ Cần Thơ, áo tím cài hoa trắng. Cậu Trinh si tình, không theo đạo nhưng sáng chúa nhựt nào cũng rình trước cổng nhà thờ để tháp tùng nàng trên đường đi lễ về. « Yêu nhau chỉ có vậy ! » Ngoài những cái liếc mắt và những nụ cười thẹn thùng, e ấp, hai người chẳng có gì để đổi trao, không dám một lời nói ra tình cảm trong lòng. Tuy nhiên cả hai đều cảm thông nhau mối tình sâu kín mà họ dành cho nhau.
Đến tháng 12 năm 1945, sinh viên học sinh theo phong trào kháng Pháp bảo vệ quê hương « Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu » trò Trinh trở về Rạch Giá, vô chiến khu trong rừng U Minh, nhờ có học và viết văn giỏi, Trinh làm phóng viên cho tờ báo
Tiếng Súng Kháng Địch của khu 9 và theo nhà thơ Rum Bảo Việt ( Rừng U Minh Bảo Vệ Việt Nam ) trò Trinh làm thơ đăng báo, trở thành thi sĩ, lấy bút danh Kiên Giang – Hà Huy Hà.
Cô Nhiều ở lại thành phố Cần Thơ, sống một cuộc sống đạm bạc, âm thầm gìn giữ mối tình đối với người yêu đang đi chinh chiến như người chinh phụ mòn mõi chờ đợi chồng về.
Năm 1950, người cùng xóm với cô Nhiều, là một nhân viên công tác thành, hiểu được tâm trạng của cô, nên nhân dịp vào chiến khu 9, anh gặp thi sĩ Kiên Giang, báo cho Kiên Giang biết là cô Tám Thúy Nhiều vẫn chưa chồng, vẫn đợi chờ Kiên Giang. Nhưng lúc đó thì vì bặt tin nhau nên Kiên Giang đã cưới vợ trong chiến khu.
Năm 1955, hòa bình lập lại, Kiên Giang lên Saigon, viết báo, soạn tuồng cải lương. Kiên Giang, Hà Triều, Hoa Phượng, Sơn Nam và tôi, chúng tôi chung mướn một căn phòng nhỏ ở dọc bờ sông gần nhà đèn Chợ Quán. Kiên Giang tâm sự với tôi : «
Tôi lên Saigon viết báo sống được, nhưng trong lòng không yên khi biết rằng suốt 9 năm chiến tranh loạn lạc, cô Nhiều vẫn không lấy chồng, vẫn âm thầm chờ đợi tôi. Tôi nghe bạn tôi nói là năm 1955, cô xuống Càmau nơi địa điểm tập kết tìm tôi, cô đâu biết là tôi đã về Saigòn từ cuối năm 1952, thời gian mà các anh tiểu tư sản trí thức bị loại ra khỏi hàng ngũ kháng chiến trong đợt giản chính của quân khu 9. Lúc đó tôi không dám về Cần Thơ, Rạch Giá vì sợ bị bắt nên mãi đến năm 1955, tôi mới về Cần Thơ gặp lại cô Nhiều. Tôi xin phép cha mẹ cô được chuyện trò tâm sự với cô, tôi đau lòng vì tự biết tôi có lỗi với cô nhưng cô cũng chẳng trách tôi, hoàn cảnh nước nhà loạn lạc, kẻ ở đầu núi, người ở ven rừng, ngàn trùng xa cách, bặt tin nhàn cá thì làm sao chẳng có những chuyện xảy ra ngoài ý muốn. Sau cuộc gặp gở tâm sự đó, cô Nhiều mới chịu lấy chồng. Tình cảm đó ám ảnh tôi không nguôi nên năm 1957, tại Bến Tre, tôi đưa tâm sự của chúng tôi vào bài thơ « Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím » Ở đoạn kết có những câu :Ba năm sau, chiếc xe hoa cũChở áo tím về giữa áo quanChuông đạo ngân vang hồi tiễn biệtKhi anh ngồi kết vòng hoa tang.Tôi đã cho người mình thầm yêu chết đi để mối tình kia nguyên vẹn là của mình.Nhưng một thời gian sau, tôi có gặp lại cô Nhiều ở Sóc Trăng, lúc này cô đã có chồng, sau cuộc gặp gỡ đó, tôi muốn chính tôi chết đi để giữ mãi sự chung thủy và trong sạch của mối tình thuở học trò. Năm 1958, tại Hàng Xanh Gia Định, tôi sửa lại bốn câu thơ trên như sau:Xe tang đã khuất nẽo đờiChuông nhà thờ khóc đưa người ngàn thuTừ đây tóc rũ khăn sôEm cài hoa trắng lên mồ người xưaTuy tôi đã sửa lại đoạn kết nhưng các bạn yêu thơ, thích nhạc chỉ thích giữ nguyên tác nhất là khi bài thơ được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ thành ca khúc.Năm 1977, chúng tôi có dịp gặp nhau, 33 năm đã trôi qua, gặp lại, hai mái đầu đã bạc. Cả hai cố tránh không nhắc nhở về cái thời cùng học dưới mái trường Nam Hưng, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn, cả hai vẫn trân trọng « cái thuở ban đầu lưu luyến ấy».Hoa trắng thôi cài trên áo tím.Lâu quá không về thăm xóm đạoTừ ngày binh lửa xóa không gianKhói bom che lấp chân trời cũChe cả người thương nóc giáo đường.Mười năm trước em còn đi họcÁo tím điểm tô thời nữ sinh Hoa trắng cài duyên trên áo tímEm là cô gái tuổi băng trinh.Trường anh ngó mặt giáo đườngGác chuông thương nhớ lầu chuôngU buồn thay ! chuông nhạc đạoRộn rã thay ! chuông nhà trườngLần lữa, anh ghiền nghe tiếng chuôngLàm thơ sầu mộng dệt tình thươngĐể nghe khe khẽ lời em nguyệnThơ thẩn chờ em trước thánh đường. Mỗi lần tan lễ chuông ngừng đổHai bóng cùng đi một lối vềE lệ, em cầu kinh nho nhỏThẹn thuồng, anh đứng lại không đi. Sau mười năm lẻ anh thôi họcNức nở chuông trường buổi biệt lyRộn rã từng hồi chuông xóm đạoTiễn nàng áo tím bước vu quy.Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡChiếc áo tang liệm khối tuyệt tìnhHoa trắng thôi cài trên áo tímThôi còn đâu nữa tuổi băng trinh.Em lên xe cưới về quê chồngDù cách đò ngang, cách mấy sông,Anh vẫn yêu em người áo tímNên tình thơ ủ kín trong lòng.Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạoAnh làm chiến sĩ giữ quê hươngGiữ màu áo tím người yêu cũGiữ cả lầu chuông, nóc giáo đườngMặc dù em chẳng còn xem lễỞ giáo đường u tịch chốn xưaAnh vẫn giữ lầu chuông gác thánhNghe chuông truy niệm mối tình thơMàu gạch nhà thờ còn đỏ thắmNhư tình nồng thắm thuở ban đầuNhưng rồi sau chuyến vu quy ấyÁo tím tình thơ đã nhạt màu.Ba năm sau chiếc xe hoa cũChở áo tím về trong áo quanChuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệtKhi anh ngồi kết vòng hoa tangAnh kết vòng hoa màu trắng lạnhTừng cài trên áo tím ngây thơHôm nay vẫn đóa hoa màu trắngAnh kết tình tang gởi xuống mồLâu quá không về thăm xóm đạoKhông còn đứng nép ở lầu chuôngNhưng khi chuông đổ anh liên tưởngNgười cũ cầu kinh giữa giáo đườngLạy Chúa, con là người ngoại đạoNhưng tin có Chúa ngự trên trờiTrong lòng con, giữa màu hoa trắngCứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!!!Kiên GiangBến Tre 14 – 11 – 1958.Theo yêu cầu của bạn đọc, tôi viết lại chuyện « một mối tình thơ gửi cô gái ngoan đạo », kể lại nguyên mẫu hình tượng người con gái chung tình, nhân vật chính trong bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Kiên Giang « Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím » và xin đăng lại trọn vẹn bài thơ theo yêu cầu của các bạn.Soạn giả Nguyễn Phương 2015.
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://www.cailuongvietnam.com là vi phạm bản quyền
Ý kiến bạn đọc