Ðệ nhị danh ca Út Rạch Giá đứng trước mái nhà lá của ông. (Hình:
Bộ sưu tập của Ngành Mai)
Út Rạch Giá còn có tên là Út Dậu, khoảng tuổi Út Trà Ôn, quê
quán ở Rạch Giá. Ban đầu ông lấy nghệ danh là Út Dậu, sau nổi
danh là Út Rạch Giá.
Năm lên 10 tuổi ông đã say mê đờn ca cổ nhạc và thường theo
nhóm ca nhạc tài tử trong làng đi chơi đây đó, có nghĩa là đi
theo xách đờn, mua rượu cho các nghệ nhân. Rồi ngày này qua
tháng nọ ông thuộc làu nhịp nhàng, bài bản và được bạn bè dạy
thêm rồi biết ca. Mặt khác ông học qua máy hát dĩa, quay tay
hồi xưa. Năm 16 tuổi ông trốn gia đình đi theo cải lương, đoàn
đầu tiên là Tân Hí Ban của bầu Núi. Ban đầu ông chỉ làm quân
câm (tức chỉ đứng chớ không nói gì hết), hàng đêm cầm giáo
đứng hầu vua, quan trên sân khấu, một thời sau mới được làm
quân báo (tấu, trình), mỗi suất hát lúc đó lãnh được 5 xu (5
xu thời đó không biết mua được gì).
Theo đoàn 3 năm, mẹ ông bắt về cưới vợ không cho đi theo cải
lương nữa. Sống với người vợ mới cưới được 6 tháng, vì nhớ sân
khấu quá nên bỏ vợ trốn đi theo cải lương lần thứ hai. Rõ ràng
mê cải lương hơn mê vợ! Ông vào gánh Thế Nguyên, vừa học nghề
vừa làm dàn cảnh, đóng vai quân sĩ. Ðến năm 1952 ông được hát
kép nhì, sau đó hãng dĩa Hoành Sơn và đài phát thanh Pháp Á
mời ông thu thanh nhiều bài vọng cổ 6 câu, và bài “Nhớ Mẹ Hiền”
của soạn giả Trần Bá. Bài này đã làm tên tuổi của Út Dậu được
khẳng định. Năm 1954 tại rạp Nguyễn Văn Hảo trong ngày giỗ Tổ
cải lương, Út Dậu ca bài vọng cổ “Nhớ Mẹ Hiền” lúc cúng Tổ,
được ông Trần Tấn Quốc và giới nghệ sĩ cải lương phong tặng
danh hiệu Út Rạch Giá - đệ nhị danh ca miền Nam (sau Út Trà Ôn
một bậc).
Từ đó đến 1961, ông được hát chánh qua các đoàn tuồng cổ:
Phong Vinh (bầu Ba Giáo), đoàn Bích Thuận... Lúc ấy ông thường
hát chung với các nghệ sĩ: Ngọc Ðáng, Kim Hoàng, Phụng Khánh,
Bích Sơn, Hoàng Tương... Qua các vở: Cơn Ác Mộng, Hồn Khương
Linh Tá, Chung Vô Diệm...
Ðến năm 1964, lâm bạo binh, ông không hát được nữa phải về Mỹ
Tho làm tài công cho đò máy Hiệp Hưng một năm. Trong thời gian
này, ông lại gặp cô Ba Thại lúc ấy là đào chánh của đoàn hát
bội Bến Tre, nên ông nghỉ tài công và đi theo hát bội, hai
người nên duyên từ đó. Răng long tóc bạc họ vẫn luôn bên nhau.
Sau 1975, Út Rạch Giá và vợ đi đoàn Hiệp Lợi, Bến Tre. Năm
1977, ông làm trưởng đoàn cải lương Hàm Luông, Bến Tre và hát
kép lão. Ðến năm 1982, ông về hưu và ở lại hậu cứ của đoàn.
Còn cô Ba Thại vợ ông đến năm 1984 bị bệnh bán thân, được vợ
chồng người con gái là Ngọc Mai và bầu Lân đem về nuôi dưỡng
tại xã An Thanh Thủy, huyện Chợ Gạo-Tiền Giang. Năm 1986, Út
Rạch Giá không còn ở hậu cứ của đoàn nữa, thỉnh thoảng đi hát
chầu. Bình thường ông rày đây mai đó với nghề vá xoong nồi
nhôm để kiếm sống.
Năm 1994, vợ chồng bầu Lân-Ngọc Mai đem ông về sống chung với
vợ ông trong tuổi gần đất xa trời. Vợ chồng bầu Lân cũng nghèo,
không có ruộng đất hay nghề nghiệp nào khác ngoài nghiệp hát
bội. Thỉnh thoảng mới lãnh được một chầu hát để xoay sở qua
ngày nên căn nhà vợ chồng nghệ sĩ Út Rạch Giá không được lành
lặn cho mấy. Người ta không khỏi bùi ngùi khi đứng trước mái
nhà lá lụp xụp, bên trong duy nhất chỉ có một chiếc giường tre
xiêu vẹo, vài cái chén, vách phên ọp ẹp, nóc nhà lổ chổ ban
đêm đếm được sao trời. Bạn bè nghệ sĩ đến thăm, Út Rạch Giá
nói rằng có những đêm mưa hai ông bà phải ngồi khúm núm ở một
góc nhà, chờ hết mưa mới ngủ được. Vậy mà mỗi khi nhắc đến sân
khấu là đôi mắt của ông bà lại sáng rực lên niềm tự hào như
một thời là ông hoàng bà chúa ở sân khấu vậy.
Từ lâu nay không nghe tin tức gì về Út Rạch Giá, không biết
ông có còn mạnh giỏi.
Ý kiến bạn đọc