Đang
truy
cập
:
369
•Máy chủ tìm kiếm : 6
•Khách viếng thăm : 363
Hôm
nay
:
113977
Tháng
hiện
tại
:
1815283
Tổng
lượt
truy
cập
:
100277382
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
KL
Năm
1960,
ông
bầu
Ba
Bản,
chủ
hãng
dĩa
Hoành
Sơn
thành
lập
đoàn
hát
Thủ
Đô
với
kỳ
vọng
thay
đổi
bộ
mặt
sân
khấu
cải
lương
bằng
cách
cải
tiến
phong
cách
trang
trí
sân
khấu,
dàn
cảnh,
sử
dụng
ánh
sáng
sân
khấu,
y
phục
diễm
lệ
và
chăm
sóc
cốt
truyện
tuồng
tích,
văn
chương
và
bài
bản
cổ
nhạc.
Tuồng
khai
trương
đoàn
Thủ
Đô
–
Ba
Bản
là
tuồngdã
sử
Tiếng
Trống
Sang
Canh
của
soạn
giả
Thu
An.
Trong
tuồng
này
có
một
lớp
diễn
cho
“Người
Khổng
Lồ”
trong
vai
đao
phủ
thủ,
chuyên
chặt
đầu
những
kẻ
chống
lại
bạo
chúa
Lê
Long
Đỉnh.
“Người
khổng
lồ”
tên
Nguyễn
văn
Dữ,
sanh
năm
1935,
tại
quận
Ba
Tri,
tỉnh
Bến
Tre,
cùng
quê
với
ông
bầu
Ba
Bản
và
soạn
giả
Thu
An.
Anh
Nguyễn
văn
Dữngười
khổng
lồ
cao
2
thước
20,
bàn
chân
dài
gần
bốn
tấc.
Y
phục,
giày,
vớ,
nón
và
mọi
đồ
dùng
cá
nhân
của
người
khổng
lồ
được
ông
Ba
Bản
đặt
làm
riêng
cho
anh
đúng
theo
kích
thước
và
sự
cần
dùng
của
người
khổng
lồ.
Dù
không
phát
âm
rõ
ràng,
giọng
nói
ồ
ề,
không
ca
được
bài
bản
cổ
nhạc
nhưng
nghệ
sĩ
Người
Khổng
Lồ
lại
là
yếu
tố
thu
hút
khán
giả
rất
mạnh
cho
đoàn
hát
Thủ
Đô.
Trong
tuồng
Tiếng
Trống
Sang
Canh,
nữ
nghệ
sĩ
Ngọc
Hương
thủ
vai
Quốc
Hương,
bị
ông
thầy
chàm
(danh
hài
Ba
Vân
thủ
diễn)cho
uống
độc
dược
theo
lịnh
vua
Lê
Long
Đỉnh
nên
bị
lở
loét
như
bịnh
phong
cùi.
Nhờ
em
bé
Bo
Bo
(nữ
nghệ
sĩ
trẻ
Thanh
Hoàng,
con
của
cua
rơ
Lê
Thành
Các
thủ
diễn)
đem
thuốc
giải
độc
cho
Quốc
Hương
nên
mới
bị
người
khổng
lồ
bắt,
xách
ngang
eo
ếch,
đem
đi
chặt
đầu.
Người
khổng
lồ
tay
xách
cây
đao
bản
lớn
hơn
hai
tất,
dài
một
thước
năm
mươi
phân,
tay
kia
nắm
ngang
eo
ếch
của
Bo
Bo,
giơ
lên
cao,
đi
ngang
trước
tấm
décor
fixe,
dừng
lại
hướng
về
khán
giả,
giọng
nói
ồ
ề:
“Chống
vua,
ta
giết!”
“Chống
vua
thì
chết”..,
nói
xong,
xách
ngang
eo
ếch
Bo
Bo
đi
vô.
Thanh
Hoàng
nổi
danh
nhờ
vai
Bo
Bo
nên
cô
đổi
tên
nghệ
sĩ
Thanh
Hoàng
thành
tên
Bo
Bo
Hoàng,
Người
Khổng
lồ
Nguyễn
Văn
Dữ
thành
tên
Đao
phủ
thủ
Dữ.
Năm 1963, gánh hát Thủ Đô -Ba Bản rã. Người khổng lồ trở về quê ở Ba Tri.
Năm
1964,
soạn
giả
Thu
An
lập
gánh
Hương
Mùa
Thu
,
nữ
diễn
viên
có:
Ngọc
Hương,
Bạch
Lê,
Ngọc
Lan,
Bo
Bo
Hoàng,
Thanh
Như
Nguyệt,
Thanh
Hồng;
nam
diễn
viên
có:
Thanh
Hải,
Út
Hiền,
Hề
Minh,
Hề
Bảy
Xê,
Minh
Hải,
Chí
Thanh
và
người
Khổng
lồ
Nguyễn
Văn
Dữ.
Tuồng
khai
trương
“Tiếng
Nhạc
Rừng
Xanh”hát
ở
rạp
Nguyễn
văn
Hảo
một
tuần
lễ,
sau
đó
đoàn
Hương
Mùa
Thu
mở
chuyến
lưu
diễn,
trạm
đầu
tiên
là
tỉnh
Bến
Tre
để
Thu
An
đón
anh
khổng
lồ
Nguyễn
Văn
Dữ
theo
đoàn
hát.
Đoàn
Hương
Mùa
Thu
lưu
diễn
các
quận
ở
Cù
Lao
Minh,
Cù
Lao
Bảo,
huyện
Ba
Tri,
huyện
Mõ
Cày,
huyện
Thạnh
Phú,
và
đến
các
vùng
ven
biển
quận
Khâu
Băng,
bờ
biển
Ba
Tri…Nơi
nào
khán
giả
cũng
đến
thật
đông
để
xem
anh
khổng
lồ
hát
cải
lương,
người
khổng
lồ
múa
đao,
người
khổng
lồ
dê
gái.
Trong
tuồng
Tiếng
Nhạc
Rừng
Xanh,
anh
Khổng
Lồ
trong
vai
chúa
tể
rừng
xanh
ra
lệnh
cho
hai
cận
tướng
Hề
Minh(ốm
tong
teo)
và
hề
Bảy
Xê
(mập
bụng
tròn
vo)
đi
bắt
Công
nương
Kiều
Mỹ
Dung
(Ngọc
Hương)
về
làmáp
trại
phu
nhơn.
Kiều
Mỹ
Dung
thấy
mặt
chúa
tể
khổng
lồ,
kinh
sợ
sắp
ngất
xỉu.
Hề
Minh
nhỏ
con,
cái
mỏ
chu
nhọn
hoắc
và
hề
Bảy
Xê,
mập,
lùn,
cái
miệng
cười
toe
toét,
cả
hai
dạy
cho
ông
khổng
lồ
cách
tỏ
tình
dịu
dàng
để
đừng
gây
kinh
động
công
nương
Kiều
Mỹ
Dung.
Lớp
diễn
này
tạo
cười
cho
khán
giả.Khi
người
khổng
lồ
khóc
ồ
ồ
lên
vì
thất
tình,
cho
đến
khi
dũng
sĩ
Thanh
Hải
đến
đánh
đuổi
gã
khổng
lồ
để
cứu
Công
Nương
thì
tuồng
hát
mới
vàochính
mạch:
Tình
yêu
kỳ
diệu
giữa
Công
Nương
Kiều
Mỹ
Dung
và
dũng
sĩ
rừng
xanh
Thanh
Hải.
Ở
tỉnh
Bến
Tre,
đợt
lưu
diễn
đầu
tiên,
Đoàn
Hương
Mùa
Thu
hát
ăn
khách
quá
sự
dự
liệu
của
ông
bầu
Thu
An.
Với
sự
hiện
diện
của
anh
nghệ
sĩ
khổng
lồ,
bất
cứ
đến
rạp
hát
nào,
quận
nào,
chỉ
trong
hai
hôm
đầu
là
vé
bán
sạch
trọn
cả
tuần
đó.
Đến
khi
định
hát
ở
miền
Trung
thì
Thu
An
quyết
định
cho
anh
kép
khổng
lồ
nghỉ
việc.
Lý
do
rất
đơn
giản,
đoàn
hátkhông
giải
quyết
được
việc
chuyên
chở
anh
Khổng
Lồ
ra
các
tỉnh
miền
Trung.
Một
mình
anh
khổng
lồ
ngồi
đã
chiếm
hai
phần
ba
chiếc
camion
chở
cảnh
trí.
Cái
đầu
của
anh
ló
ra
khỏi
cái
mui
xe
camion.Đường
ra
miền
Trung
nhiều
đèo
nhiều
hố
bên
đường
núi,
việc
chuyên
chở
anh
khổng
lồ
theo
không
bảo
đảm
an
toàn.
Nhớ
lại
khi
hát
ở
huyện
Mỏ
Cày,
đoàn
hát
trú
ngụ
nơi
lẫm
lúa
bên
kia
sông,
bên
này
sông
là
rạp
hát,
mỗi
ngày
vào
giờ
tập
tuồng
và
mỗi
chiều
trước
khi
đoàn
mở
màn
hát,
hàng
chục
cảnh
sát
ở
huyện
phải
khó
khăn
giải
tán
số
khán
giả
đứng
trên
cầu
gỗ
bắt
qua
sông
Mỏ
Cày.
Dân
hiếu
kỳ
đứng
nghẹt
hai
đầu
cầu
khi
anh
khổng
lồ
đi
đến
giữa
cầu.
Anh
không
đi
tới
qua
rạp
hát
được
mà
cũng
không
có
đường
trở
lại
lẫm
lúa,
nơi
anh
ở.
Khi
anh
khổng
lồ
đến
giữa
cầu
thì
dân
ở
hai
bên
đầu
cầu
tràn
lên,
chen
nhau
để
tới
gần
anh,
rờ
tay,
mó
chân,
kéo
áo
anh,
tặng
trái
cam
trái
chuối,Anh
tên
Dữ
mà
hiền
khô,
ai
làm
gì
trêu
ghẹo
anh,
anh
cũng
chỉ
cười
trừ
nhưng
cảnh
sát
sợ
sập
cầu,
thổi
tu
huýt
giải
tán
dân
như
giải
tán
một
cuộc
biểu
tình
vĩ
đại,
thật
là
vất
vả.
Có
địa
phương
đòi
đoàn
hát
phải
đóng
thêm
tiền
mướn
cảnh
sát
để
tăng
cường
giữ
trật
tự.
Có
nơi
chủ
rạp
không
cho
anh
khổng
lồ
ngủ
trong
rạp
vì
sợ
dân
hiếu
kỳ
tràn
vô
làm
gãy
ghế
trong
rạp
hát.
Mà
mướn
nhà
dân
cho
anh
ở
cũng
không
phải
dễ.
Nhà
lá
ở
thôn
quê,
mái
thấp,
anh
không
chun
vô
nhà
được.
Con
nít
thấy
anh
là
khóc
ré
lên.
Khó
khăn
này
chỉ
mới
kể
đến
việc
ăn,
ở
của
anh
khổng
lồ
nơi
đoàn
hát
đến.
Còn
nhiều
khó
khăn
nguy
hiểm
khi
đoàn
hát
di
chuyển.
Nếu
đi
ghe
trên
sông,
rạch,
anh
Dữ
ngồi
yên
thì
tốt,
khi
anh
trở
mình
thì
ghe
chuyển
động
như
sắp
chìm.
Khi
có
gió
to
sóng
lớn,
ghe
lắc
lư,
anh
lắc
theo
thì
sức
nặng
của
anh
có
thể
kéo
cho
ghe
nghiêng
hẳn
và
chìm
ghe
là
cái
chắc.
Lợi
bất
cập
hại,
ông
bầu
Thu
An
đành
phải
xa
anh
thần
tài
khổng
lồ
của
anh.
Người
khổng
lồ
Nguyễn
Văn
Dữ
được
tặng
cho
một
ngôi
nhà
lá,
nóc
cao,
cửa
rộng,
ba
công
vườn
dừa
và
hai
công
vườn
cam,
quít
ở
huyện
Ba
Tri,
anh
không
theo
đoàn
Hương
Mùa
Thu
nữa.
anh
Khong
Lo
va
Bo
Bo
Hoang
Trong lịch sử sân khấu cải lương, diễn viênlùn,mập hay thật cao, ốm thì không phải ít nhưng to con như anh khổng lồ Nguyễn văn Dữ thì chỉ có một mình anh. Nhắc đến diễn viên khổng lồ Nguyễn Văn Dữ như là khẳng định tính cách tự do kinh doanh dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau 1975, những nghệ sĩ buộc phải là chiến sĩ tuyên truyền, phải hát những bài hát theo đúngđường lối chính trị của đảng. Anh Dữ giọng nói ồ ề khó nghe, không ca, không hát được, không đủ tiêu chuẩn một chiến sĩ tuyên truyền, không thể nào theo đoàn hát Hương Mùa Thu như anh đã được theo.
Năm 2000,tôi về thăm quê hương, gặp hai soạn giả Thu An và Kiên Giang, biết gánh Hương Mùa Thu rã, hàn huyên tâm sự, tôi nói: “Thu An xưa nay nổi tiếng là một ông bầu nhiều phù phép. Gặp khó khăn trở ngại nào, anh cũng có cách vượt qua. Còn nhớ năm 1964, đoàn Hương Mùa Thu mới khai trương giữa nhiều gánh hát đại ban như Thanh Minh Thanh Nga, Kim Chưởng, Kim Chung, Dạ Lý Hương, anh đã có diễn viên khổng lồ Nguyễn văn Dữ là một chiêu bài ăn khách một cách kinh thiên động địa. Năm 1966, đoàn Hương Mùa Thu đang hát ở Quảng Ngãi, bị bão lụt, di chuyển khó khăn, lại không có đất để trình diễn, hơn nửa tháng trời đói lạnh, vậy mà anh vẫn đưa Hương Mùa Thu vượt qua được tai trời ách nước.Đoàn lấy lại được phong độ, hát đông khách như ngày mới thành lập. Năm 1968 Tết Mậu Thân, súng nổ đầy trời, dân tình khổ sở, giới nghiêm trong toàn miền Nam không hát được ban đêm trong vài ba tháng, nhiều đoàn hát nhỏ và bực trung bị rã gánh, vậy mà đoàn Hương Mùa Thu vẫn tồn tại, hát cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau tháng 4 năm 1975, tất cả các đoàn hát cải lương của toàn miền Nam bị giải tán, riêng đoàn Hương Mùa Thu được phép thành lập lại. Các đoàn hát cải lương tập thể mới thành lập được cán bộ của Sở Văn Hóa Thông Tin đưa xuống làm Trưởng đoàn. Riêng Hương Mùa Thu thì Trưởng đoàn hay Bầu gánh cũng là ông soạn giả Thu An. Đoàn Hương Mùa Thu được ưu đãi mà sao đến năm 1990anh lại cho rã gánh, cho Minh Phụng mướn xác gánh để lập thành đoàn hát Tiếng Chuông Vàng Minh Phụng?”
Ông bầu Thu An trầm ngâm rất lâu, dường như không dám nói sự thật, nhưng sau cùng anh cũng nói như trút một gánh nặng đang đè trong tâm trí: “Anh Nguyễn Phương cũng biết: Gánh hát cải lương đối với tôi, với Ngọc Hương và cả những người trong gia đình chúng tôi, đó là lẽ sống! Bao nhiêu tâm huyết, tiền của, cả gia đình tôi đều bỏ ra để thực hiện ước mơ làm sống mạnh đoàn Hương Mùa Thu, bằng chứng là tôi đã bán đi dãy phố lầu đúc 12 căn, bán luôn cái villa nhà của vợ chồng tôi đang ở để lấy tiền bù lỗ, vực dậy gánh hát. Kết quả là dù làm gì, dùng mánh khóe nào, gánh hát cũng đến kết quả là phải chịu tan rã thôi. Sự thật thì báo Sân Khấu của Thành Phố cũng đã nhiều lần đề cập rồi nhưng không ai giải quyết, đưa đến tình trạng sân khấu cải lương bế tắc, xuống dốc thảm hại như hiện nay. Hồi trước 75, ở Saigòn, Chợ Lớn và Gia định có 39 rạp hát dành cho cải lương. Bây giờ chỉ còn duy nhứt rạp Hưng Đạo, mà rạp Hưng Đạo do đoàn cải lương Trần Hữu Trang quản lý. Trần Hữu Trang có ba đoàn hát, khi nào ba đoàn đó không hát thì mới cho các đoàn hát Tập Thể mướn, Hương Mùa Thu phải thường đi lưu diễn nhưng rạp hát ở tỉnh đã biến thành Trung Tâm Văn Hóa, không có thể thường xuyên cho đoàn hát cải lương mướn. Cải lương phải mướn sân banh, bãi đất nào đó, mướn cà tăng bao quanh làm sân khấu và khán phòng, mướn ghế cho khán giả ngồi, mướn dàn đèn, máy đèn, mướn chỗ cho nghệ sĩ ở, chỗ làm bếp, chỗ vệ sinh. Phải mướn Du kích, Tự Vệ và cảnh sát xã để giữ trật tự… Bãi diễn thì phải trả từ 15 phần trăm đến 20phần trăm tiền thu của một suất hát…Đó là chưa kể hàng đêm phải cho các cơ quan và chánh quyền địa phương hàng trăm vé ghế thượng hạng để các quan chức địa phương giải trí ! Ở TPHCM thì bao nhiêu rạp hát ngày trước như Quốc Thanh, Cao Đồng Hưng, Lao Động A, Lao Động B, rạp Quốc Tế, rạp Kim Châu, rạp Oscar, rạp Thủ Đô, rạp Long Vân… được biến thành restaurant cho mướn tiệc tùng, đám cưới, hoặc trở thành casino cho cờ bạc, roulette, hoặc làm nhà bán sách hoặc làm trung tâm văn hóa. Không có rạp hát để hát thì các đoàn hát cải lương giống như các người mua bán, không có chợ, không có cửa hàng thì phải đi mua gánh bán bưng, bán hàng rong trên hè phố. Đoàn hát cải lương không rạp hát phải xé lẻ ra đi tấu hài, hát ca khúc hoặc trích đoạn cải lương ở các tụ điểm văn hóa của các phường. Kiểm duyệt tuồng khó khăn, hơn mười mấy năm sau giải phóng, có soạn giả miền Nam nào có được tuồng do hội đồng kiểm duyệt cho phép hát không?
Trước 75, bão tố, lụt lội, mình khéo ngoại giao thì quận trưởng hay tỉnh trưởng là nhà binh, họ cho xăng nhớt, có khi cho vài bao gạo hay cho cả một con bò để cứu đoàn hát qua cơn đói vì không hát được. Tuồng tích thì viết tự do, theo tâm lý và sở thích của khán giả, do đó khi hát thì có khán giả đến xem đông đảo. Còn bây giờ tuồng hát phải sáng tác theo định hướng chính trị. Định hướng đó chưa chắc gì khán giả muốn theo, vậy nên khó mà thu hút khán giả đến xem hát như hồi xưa. Thêm vào đó, khi đi lưu diễn thì mỗi xã, mỗi huyện, mỗi tỉnh mỗi địa phương đều có một ông vua, nhiều ông vua, có luật lệ riêng, thâu tiền rạp, tiền bãi diễn tùy theo ý thích, đó là chưa kể nạn côn đồ, con cháu các cán bộ ở địa phương, xem hát cọp mà dẫn theo mỗi toán vài chục người trong gia đình, bè bạn, vô ngang nhiên chiếm ghế ngồi, gây trở ngại cho đoàn hát và khán giả đã mua vé xem hát mà mất ghế ngồi. Không phải chỉ riêng đoàn Hương Mùa Thu phải rã gánh mà còn các đoàn hát khác cũng phải chịu rã gánh như đoàn Minh Tơ, Huỳnh Long, Saigon 1, 2, 3, Phước Chung, Kim Cương, Thanh Nga….Còn nhiều nữa, nói chi thêm buồn!”Tôi hỏi: “Ví dụ có nghệ sĩ khổng lồ như anh Nguyễn Văn Dữ, có thể kéo khán giả đến xem hát như hồi xưa không?”
Kiên Giang cười hề hề: “Nếu có anh khổng lồ Nguyễn văn Dữ đó thì trong thời buổi sau 1975 anh ta đã chết đói nhăn răng ra rồi! Tóm lại lịch sử cải lương miền Nam chỉ có một nghệ sĩ khổng lồ là anh Nguyễn văn Dữ mà thôi !”
Nhớ
sân
khấu
cải
lương
thời
hoàng
kim.
Soạn
giả
Nguyễn
Phương
Tháng
12/2017
Mã
an
toàn:
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Ý kiến bạn đọc