Dạ
cổ
hoài
lang
-
báu
vật
của
dân
tộc
Nhắc
đến
đờn
ca
tài
tử,
Bạc
Liêu
vẫn
luôn
tự
hào
vì
đã
sản
sinh
ra
người
nhạc
sĩ
tài
hoa
Cao
Văn
Lầu
với
bản
Dạ
cổ
hoài
lang.
.

Nhạc
sĩ
Cao
Văn
Lầu
năm
1960.
(Ảnh
tư
liệu)
Chúng
tôi
đến
khu
lưu
niệm
nhạc
sĩ
Cao
Văn
Lầu
vào
một
buổi
trưa
dịu
nắng,
đốt
nén
hương
trầm
nghi
ngút
khói
như
nghe
văng
vẳng
bên
tai
sáu
câu
vọng
cổ,
nào
“xự”,
nào
“xê”,
nào
“cống”,
những
ca
từ
như
rót
vào
tai
chúng
tôi
nỗi
niềm
tiếc
thương
da
diết.
Cuộc
đời
và
sự
nghiệp
sáng
tác
của
nhạc
sĩ
Cao
Văn
Lầu
cũng
như
nhân
duyên
ra
đời
bàiDạ
cổ
hoài
lang
qua
những
câu
chuyện
truyền
miệng
của
người
dân
nơi
đây
khiến
chúng
tôi
càng
thêm
ngưỡng
vọng
về
tình
yêu
quê
hương,
đất
nước
của
ông.
Sinh
ra
ở
mảnh
đất
Long
An
nhưng
do
gia
cảnh
khốn
khó,
cả
gia
đình
Cao
Văn
Lầu
đã
phải
rời
quê
phiêu
dạt
đến
các
vùng
Xà
Phiên
(tỉnh
Hậu
Giang),
Họng
Chàng
Bè,
Thạnh
Hòa
(Bạc
Liêu)
sinh
sống.
Thuở
thiếu
thời,
Sáu
Lầu
(tên
thường
gọi
của
nhạc
sĩ
Cao
Văn
Lầu)
đã
bén
duyên
cùng
cây
đàn.
Ông
theo
học
nhạc
thầy
Hai
Khị,
nghệ
nhân
nhạc
lễ
nổi
tiếng
của
Nam
Bộ
thời
bấy
giờ.
Học
trò
Lầu
nhờ
sáng
dạ
và
siêng
năng
nên
sớm
lĩnh
hội
được
sở
học
của
thầy.
Chỉ
một
thời
gian
ngắn,
Sáu
Lầu
đã
sử
dụng
thành
thạo
các
loại
nhạc
cụ
như:
đàn
kìm,
cò,
trống
lễ
và
sớm
trở
thành
nhạc
sĩ
chính
trong
ban
nhạc
của
thầy.
Theo
mỗi
gánh
hát,
tiếng
đàn
ngọt
dịu
và
mộc
mạc
của
Sáu
Lầu
nghe
như
tiếng
lòng
ông
gởi
gắm
đã
làm
say
mê
bao
cô
gái
miền
Tây
chân
chất.
Nỗi
niềm
xa
cách
Trải
qua
những
mối
tình
đứt
đoạn,
năm
21
tuổi,
Sáu
Lầu
cưới
vợ
là
bà
Trần
Thị
Tấn,
một
cô
gái
ngoan
hiền
ở
Điền
Tư
Ô.
Vợ
chồng
sống
với
nhau
3
năm
nhưng
chưa
có
con
nối
dõi.
Bị
ràng
buộc
bởi
tư
tưởng
phong
kiến
“Tam
niên
vô
tử
bất
thành
thê”
nên
mẹ
buộc
ông
chia
tay
với
vợ.
Không
thể
phụ
rẫy
người
vợ
hiền
bao
năm
chung
sống,
Sáu
Lầu
đưa
vợ
tá
túc
tại
một
ngôi
chùa
và
vẫn
thường
ngày
lén
lút
gặp
vợ.
Có
những
đêm
quạnh
quẽ
trong
nỗi
cô
đơn,
đau
đớn
cảnh
vợ
chồng
chia
lìa,
ông
giãi
bày
tâm
sự
cùng
tiếng
đàn.
Trong
nỗi
niềm
xa
cách
nhớ
thương
vợ,
những
ca
từ
đầu
tiên
của
bài
Dạ
cổ
hoài
lang
vang
vọng
da
diết:
“Từ
là
từ
phu
tướng
Bảo
kiếm
sắc
phán
lên
đàng
Vào
ra
luống
trông
tin
chàng
Năm
canh
mơ
màng…”
Dạ
cổ
hoài
lang
(Đêm
nghe
tiếng
trống
nhớ
chồng)
ra
đời
vào
năm
1919,
thời
điểm
đất
nước
chiến
tranh
loạn
lạc,
đã
nói
đúng
tâm
trạng
của
những
người
phụ
nữ
có
chồng
chinh
chiến
nơi
xa,
ngày
đêm
mòn
mỏi
chờ
đợi.
Vì
vậy,
ngay
khi
ra
đời,
bài
ca
đã
đi
vào
đời
sống
người
dân
một
cách
tự
nhiên
và
có
sức
cuốn
hút
mạnh
mẽ.
Năm
1934,
danh
ca
Lưu
Hòa
Nghĩa
phát
triển
bài
ca
lên
nhịp
8
đã
biến
bản
Dạ
cổ
hoài
lang
trở
thành
bài
vọng
cổ.
Bài
vọng
cổ
này
đã
nói
hộ
nhiều
người
những
nỗi
niềm
tâm
sự
buồn
thương,
cay
đắng,
chuyện
đạo
nghĩa,
lòng
nhân.
Sáu
câu
vọng
cổ
được
ca
lên,
nhiều
người
như
tìm
thấy
một
phần
số
phận
mình
trong
đó
và
cảm
thấy
được
gửi
gắm
tâm
sự,
chia
sẻ
sâu
sắc.
Bài
ca
yêu
nước

Trên
sân
khấu
Hợp
ca
tranh
tài,
ca
sĩ
Đức
Tuấn
từng
dựng
lại
cho
đội
Long
Xuyên
bản
Dạ
cổ
hoài
lang
kết
hợp
loại
hình
hợp
ca
của
phương
Tây
với
đờn
ca
tài
tử
Nam
Bộ.
Ảnh:
VnExpress.net
Qua
hai
cuộc
kháng
chiến
chống
Pháp
và
Mỹ,
bản
vọng
cổ
đã
khẳng
định
được
cái
thế
của
một
bài
ca
yêu
nước,
góp
phần
không
nhỏ
vào
công
cuộc
giải
phóng
dân
tộc.
Năm
1947,
Cao
Văn
Lầu
thực
hiện
thành
công
nhiệm
vụ
giải
thoát
6
cán
bộ
cách
mạng
ra
khỏi
nhà
tù
của
thực
dân
Pháp.
Những
đồng
chí
được
thoát
hiểm
năm
ấy
không
hề
biết
sự
đóng
góp
thầm
lặng
của
tiếng
đàn
ông
Sáu
Lầu
và
sâu
xa
hơn
nữa
là
lòng
yêu
nước
tiềm
ẩn
trong
lòng
mỗi
công
dân
Việt
Nam.
Cũng
chính
sự
lan
tỏa
sâu
rộng
trong
đời
sống
nhân
dân,
chính
quyền
Sài
Gòn
thời
bấy
giờ
muốn
lợi
dụng
bản
Dạ
cổ
hoài
lang
để
tố
cộng,
chống
cộng
nhưng
bất
thành
vì
bài
vọng
cổ
mang
đậm
âm
hưởng
của
dân
tộc
Việt
khơi
gợi
tình
yêu
quê
hương,
đất
nước
của
con
người
Việt.
Bài
vọng
cổ
còn
đi
vào
chiến
trường
đạn
bom
khói
lửa,
giục
giã
bước
chân
ra
trận.
Nhiều
chiến
sĩ
cách
mạng
đêm
nào
cũng
mở
đài
nghe
ca
vọng
cổ
trong
những
ngày
áp
sát
giải
phóng
Sài
Gòn
để
thêm
yêu
dải
đất
đồng
bằng
miền
Nam,
thêm
động
lực
vào
trận
chiến.
Hay
những
cô
gái
miền
Tây
mỗi
ngày
chèo
xuồng
trên
dòng
sông
Hậu,
cất
tiếng
ca
vọng
cổ
để
lấy
niềm
tin
lính
ngụy,
tránh
sự
kiểm
soát
gắt
gao
của
chúng.
Nhưng
đối
phương
không
biết
mỗi
chiếc
xuồng
chở
đầy
trái
cây
cất
giấu
nhiều
vũ
khí,
tài
liệu
của
cách
mạng.
Từ
tâm
sự
của
một
người
đàn
ông,
thương
vợ
mà
viết
nên
tâm
sự
của
vợ
nhưng
chẳng
mấy
chốc
lại
vươn
vai
lớn
mạnh,
Dạ
cổ
hoài
lang
là
bài
ca
làm
nên
lịch
sử
dân
tộc.
Khi
nghệ
thuật
sân
khấu
cải
lương
ra
đời,
Dạ
cổ
hoài
lang
đã
gánh
cả
tiền
đồ
sân
khấu
cải
lương
với
nét
nhạc
du
dương,
quyến
rũ
trong
suốt
quá
trình
hình
thành
và
phát
triển
của
loại
hình
ca
kịch
dân
tộc
này.
Từ
bản
nhịp
đôi,
theo
dòng
cảm
hứng
của
nhạc
sĩ,
bài
vọng
cổ
đã
mở
dần
ra
nhịp
32,
64
thậm
chí
lên
tới
128
với
nhiều
lối
ca.
Theo
năm
tháng,
những
giai
điệu
này
cứ
đi
chơi
vơi
theo
kiểu
truyền
miệng
từ
người
này
đến
người
khác
với
nhiều
dị
bản
về
lời
ca
và
nét
nhạc,
mỗi
người,
mỗi
vùng
lại
hát
một
kiểu
tùy
theo
cảm
hứng.
Tuy
nhiên,
tình
yêu
trong
bản
Dạ
cổ
hoài
lang
của
ông
Sáu
Lầu
mới
thật
da
diết,
là
hơi
thở,
nhịp
đập
của
con
người
Nam
Bộ,
sống
mộc
mạc,
thủy
chung.
Chính
tình
yêu
đó
đã
giúp
bản
nhạc
bền
bỉ
theo
thời
gian.
Gần
một
thế
kỷ
trôi
qua,
Dạ
cổ
hoài
lang
đã
trở
thành
báu
vật
của
người
dân
Bạc
Liêu
nói
riêng
và
của
cả
dân
tộc
nói
chung.
Đến
Bạc
Liêu
mà
chưa
nghe
đờn
ca
tài
tử
thì
coi
như
chưa
đến
nơi
đây.
Giai
điệu
“Từ
là
từ
phu
tướng...”
của
cố
nhạc
sĩ
Cao
Văn
Lầu
đã
hiển
nhiên
trở
thành
một
biểu
trưng
cho
văn
hóa
dân
tộc.
Giai
điệu
ấy
đi
dài
suốt
cả
thế
kỷ
như
là
cội
nguồn
của
tiếng
Việt,
tâm
hồn
con
người
Việt,
như
là
tâm
trạng
chung
của
cả
một
thời
kỳ,
của
nhiều
thế
hệ
tiếp
nối.
HOÀNG
HÂN
Ý kiến bạn đọc