Ngày
Giỗ
Tổ
Nghề
Hát
thường
được
tổ
chức
trọng
thể
trong
3
ngày
:
11,
12
và
13
Tháng
8
Âm
Lịch
hằng
năm
và
đây
cũng
được
xem
là
những
Ngày
Tết
của
giới
nghệ
sĩ_giới
làm
nghệ
thuật
sân
khấu.
Tục
truyền
từ
những
đoàn
Hát
Bội
cổ
xưa
:
Đời
nhà
Trần(
thế
kỷ
thứ
13)
đã
bắt
đầu
có
bộ
môn
Hát
Bội.
Vì
bởi
vua
Trần
Nhân
Tông
đã
bắt
được
một
tù
binh
của
Nguyên
Mông
là
một
nghệ
sĩ
người
Hán
tên
gọi
Lý
Nguyên
Cát_
ông
này
biết
văn
nghệ
,
giỏi
múa
hát,
tuồng
tích
.
Nhà
vua
mang
về
tha
tội,
rồi
cho
lập
ban
hát
trong
triều
đình
giao
cho
Lý
Nguyên
Cát
hướng
dẫn
và
nghề
hát
được
xuất
thân
từ
trong
triều
đình
đời
Trần.
Một
truyền
thuyết
khác
trong
cuốn
Văn
hóa
Dân
gian
Cổ
truyền
vào
đời
Trần
không
nói
rõ
đời
vua
nào
.
Nhà
vua
và
hòang
hậu
sau
khi
làm
lễ
tạ
ơn
Trời
Phật
đã
ban
cho
cả
nước
được
quốc
thái
dân
an,
sau
đó
hoàng
hậu
hạ
sinh
hai
con
trai.
Hai
hoàng
tử
lúc
ấy
vẫn
còn
nhỏ
mà
rất
ham
mê
xem
Ban
Hát
trong
triều,
ngày
đêm
cứ
theo
Ban
Hát
xem
tập
tành
biểu
diễn,
quên
ăn
bỏ
ngủ,
lâu
ngày
nên
sinh
nhuốm
bệnh.
Một
đêm,
vẫn
còn
bệnh
nhưng
hai
ấu
hoàng
lén
vua
cha
trốn
ở
xó
buồng
hát
xem
diễn
tuồng.
Vãn
hát,
mọi
người
đổ
xô
đi
tìm
thì
thấy
hai
hoàng
tử
ôm
nhau
mà
chết
tự
lúc
nào.
Sau
này,
các
nghệ
sĩ
trong
Ban
Hát
vẫn
thấy
hai
hòang
tử
hiển
linh
hiện
về
xem
hát,
khi
thì
thấy
ngồi
xem
hát,
lúc
thấy
trong
hậu
trường
,
mọi
người
cho
là
linh
hiển
nên
lập
bàn
thờ
tôn
kính
là
Tổ
Sư..
Vì
kiêng
húy
nên
gọi
trệch
ra
là
"ông
Làng"
thay
vì
là
"ông
Hoàng".
Vì
hai
ấu
hoàng
tử
chết
trẻ
nên
đầu
tiên
trong
Ban
Hát
thường
cúng
bánh
kẹo,
dần
dần
theo
thời
gian
thay
đổi
đi
,
bắt
đầu
cúng
hoa
quả
trái
cây...Nhưng
cấm
kỵ
trái
thị
.Ông
Nhưng
(
ngày
nay
người
đời
gọi
là
ông
Bầu)
giải
thích
rằng
:
"Sợ
e
hai
ấu
hoàng
thấy
trái
thị
đẹp
và
thơm
nên
ham
thích
chơi
đùa
mà
không
phù
hộ
cho
các
diễn
viên
trong
lúc
hát"
(
cho
nên
dân
gian
thường
nghe
cấm
trái
thị
mang
vào
đoàn
hát
là
vậy)
Ngày
nay,
hằng
năm
các
đoàn
hát
Cải
Lương
thường
chọn
ngày
11.08
hay
12.08
Âm
Lịch
để
cúng
Giỗ
Tổ.
Duy
chỉ
có
các
đoàn
Tuồng
Cổ
hay
Hát
Bội
thì
thường
chọn
cách
cúng
3
ngày
:
11
(
CÚNG
CHAY),
12
(
CÚNG
MẶN)
và
13
(
CÚNG
TẤT
ĐƯA
BÀI
VỊ).
Những
ngày
này
bọn
trẻ
chúng
tôi
hồi
bé
rất
yêu
thích,
vì
được
cha
mẹ
cho
mặc
quần
áo
mới
như
những
ngày
Tết
Nguyên
Đán.
Một
chi
tiết
khá
đặc
biệt
và
hậu
hỉ
mà
tôi
rất
thích
là
những
ngày
này
anh
chị
em
nghệ
sĩ
đồng
nghiệp
với
nhau
có
dịp
tề
tựu
gần
gũi
nhau
nhiều
hơn,
có
những
thâm
tình
cần
chia
sẻ,
mọi
người
hầu
như
trút
hết
cho
nhau
tình
yêu
thương
những
gì
có
thể...Trong
năm,
có
những
lấn
cấn
điều
gì
chưa
hiểu
nhau
cũng
lần
lượt
được
giải
tỏa,
tháo
gỡ,
tâm
tình,
bộc
bạch..v..v...
Trong
ngành
Tuồng
Cổ,
Hát
Bội
còn
có
môt
chi
tiết
rất
dễ
thương
là
"Quỳ
hương"
trước
bàn
thờ
Tổ.
Hằng
năm,
trong
ngày
Giỗ
Tổ,
anh
chị
em
nghệ
sĩ
nhất
là
diễn
viên
còn
có
phong
tục
Quỳ
hương
tức
là
sau
khi
vái
lạy,
họ
cầm
cây
nhang
và
quỳ
cho
đến
khi
cây
nhang
tàn
mới
đứng
lên.
Mục
đích
như
một
lời
thú
tội
là
trong
năm
có
làm
điều
gì
sai
quấy,
nói
câu
gì
không
phải
xin
Ơn
trên
Tổ
nghiệp
tha
lỗi
cho...
Theo
hồi
ký
của
cố
soạn
giả
nghệ
sĩ
lão
thành
Thành
Tôn
rằng
Đạo
Tổ
(
nghề
Hát)
không
có
giáo
điều,
nhưng
có
phong
tục
tập
quán,
có
nhiều
kiêng
cử:
Ví
dụ
như
trong
3
ngày
Giỗ
Tổ
theo
thời
xưa
thì
nghỉ
xã
hơi
ăn
Tết
và
cúng
Tổ.
Khi
nào
diễn
lại
phải
coi
ngày,
coi
nước
rồi
mới
nhổ
sào,
ban
trống
rồi
mới
ra
ghe
(
ngày
xưa
đoàn
hát
di
chuyển
bằng
ghe).
Ban
trống
là
quy
luật
phạm
trù
bất
di
bất
dịch
và
rất
quan
trọng(
một
hồi
là
gì,
hai
hồi
là
gì,
ba
hồi
là
gì...)
chỉ
cần
nghe
tiếng
ban
trống
là
biết
ngay
mọi
việc
trong
đoàn
hát
tiến
triển
đến
đâu....
Anh
chị
em
nghệ
sĩ
Tuồng
Cổ,
Hát
Bội
ngày
xưa
đến
nay
rất
tin
tưởng
Tổ
nghiệp
nghề
hát,
làm
việc
gì
liên
quan
đến
nghề
đều
khấn
vái
Tổ
nghiệp
một
cách
trân
trọng,khiêm
cung,
kính
cẩn.
Theo
lịch
sử,
đời
nhà
Nguyễn
có
ông
Đào
Duy
Từ
là
người
có
công
lớn
trong
Văn
hóa
Nghệ
thuật
Hát
Bội,
ông
là
nhà
quân
sự,
nhà
thơ
và
nhà
nghiên
cứu
về
văn
hóa,
là
danh
thần
thời
Chúa
Nguyễn
Phúc
Nguyên.
Chỉ
vỏn
vẹn
8
năm
phò
Chúa
Sãi
từ
1627
đến
1634
nhưng
ông
Đào
Duy
Từ
đã
khắc
hoạ
hình
ảnh
đặc
dị
một
người
thầy
của
Chúa
Sãi,
một
kiệt
tướng,
một
chính
trị
gia,
một
chiến
lược
gia,
một
kiến
trúc
gia,
một
kỹ
thuật
gia,
một
nghệ
sư
tài
hoa,
một
học
giả,
cũng
như
là
người
góp
phần
quan
trọng
định
hình
được
nhà
nước,
địa
lý
và
bản
sắc
Đàng
Trong.
Các
vua
đời
Nhà
Nguyễn
công
nhận
ông
là
đệ
nhất
khai
quốc
công
thần
và
thờ
ông
ở
Thái
miếu.
Trên
bàn
thờ
Tổ
nghiệp,
ngoài
hai
ông
Hoàng:
Tiên
Sư,
Tổ
Sư
còn
có
Thánh
Sư,
đó
chính
là
ông
Đào
Duy
Từ.
Người
có
công
viết
lại
những
kịch
bản
Hát
Bội
theo
chiều
hướng
Việt
Nam
.
Ngoài
ra,
một
bên
còn
thờ
Thập
Nhị
Công
nghệ(
Công,
Hầu,
Khanh,
Tường,
Sĩ,
Nông,
Công,
Thương,
Ngư,
Tiều,
Canh,
Mục)
Bên
còn
lại
thờ
những
nghệ
sĩ
quá
cố,
gọi
chung
là
Cửu
Huyền
Thất
Tổ.
Theo
Hát
Bội
ngày
xưa,
có
một
trong
những
điều
mà
các
cô
bác,
các
anh
chị
nghệ
sĩ
đi
trước
thường
nhắc
nhở
đàn
em
cháu
về
sau,
rằng
làm
bất
cứ
điều
gì
quan
trọng
nhất
vẫn
là
giữ
gìn
đạo
đức
diễn
viên.
Cho
nên
hay,
dở,
thành,
bại
gì
gì..
...thì
nhất
nhất
đều
nhắc
đến
Tổ
nghiệp
.
Ít
nhiều
gì
ngày
nay
thỉnh
thoảng
mọi
người
thường
nghe
làm
việc
gì,
anh
chị
em
nghệ
sĩ
luôn
nhắc
đến
Tổ
Nghiệp.
Ví
dụ
như
:
-
hôm
nào
hát
hay
được
khán
giả
khen
gọi
là
TỔ
ĐÃI
-
nếu
lỡ
làm
điều
gì
không
phải
ra
sân
khấu
quên
tuồng
cho
dù
vở
tuồng
hát
đã
nhiều
lần
nhưng
vẫn
lẫn
lộn
và
nói
nhầm
gọi
là
TỔ
TRÁC
-
lớn
tuổi
rồi
mà
ca
diễn
vẫn
còn
hay,
vẫn
còn
được
khán
giả
yêu
thương
,mến
mộ
thì
gọi
là
TỔ
THƯƠNG.
-
nói
câu
gì
xúc
phạm
đến
nghề
nghiệp,
xem
thường
đêm
diễn,
xem
thường
khán
giả
để
có
một
kết
quả
không
hay
thì
gọi
là
TỔ
PHẠT.
-...vân
vân....
Người
ngày
xưa
đi
hát
là
chỉ
biết
đi
hát,
đem
nghệ
thuật
phục
vụ
niềm
vui
tinh
thần
cho
mọi
người,
không
hề
có
ý
lợi
dụng
nghề
hát
mà
làm
điều
bất
chánh,
bất
nghĩa,
bất
nhân...Vốn
dĩ
tuồng
tích
xưa
hầu
hết
là
khuyên
nhủ
con
người
ta
sống
sao
cho
trọn
ân
vẹn
nghĩa,
thì
người
nghệ
sĩ
xưa
phải
làm
sao
xứng
đáng
với
vị
trí
của
mình.
Đó
là
ngày
xưa,
ngày
nay
thì
hơi
khác
một
chút.
Thời
buổi
hiện
đại,
thiên
hạ
sống
thoáng
hơn,
chứ
không
theo
rập
khuôn
phong
tục
như
xưa
nữa
,
nhưng
dù
sao
cũng
còn
nhớ
đến
ngày
Giỗ
Tổ
nghiệp
hằng
năm
là
điều
đáng
mừng.
Những
Ngày
Giỗ
Tổ,
người
đi
trước
luôn
nhắc
nhở
cho
thế
hệ
sau
hiểu
ngọn
ngành
hơn,
chi
tiết
hơn
về
nghề
cũng
như
về
Tổ
nghiệp
và
đạo
đức
làm
nghề.
Nhân
dây,
tôi
cũng
xin
mạn
phép
nhắn
nhủ
với
ai
đó
cho
rằng
Tổ
nghiệp
nghề
hát
xuất
thân
là
ăn
xin
là
một
sai
lầm
đáng
trách,
nhất
là
người
biết
đi
hát,
nguời
làm
nghệ
thuật.
Trong
nghề
hát
ngày
xưa,
cử
cho
tiền
người
ăn
xin
là
vì
theo
xưa
nghề
hát
đi
rày
đây
mai
đó,
gọi
là
tha
phuong
cầu
thực,
cũng
giống
như
người
hành
khất
tha
phương
cầu
thực.
Có
một
điểm
trùng
hợp
nhau
là
THA
PHƯƠNG
CẦU
THỰC
chứ
không
phải
ông
Tổ
nghề
hát
xuất
thân
là
người
ăn
xin.
Và
nhân
đây,
tôi
cũng
xin
bổ
xung
chi
tiết
này
trích
lại
một
đoạn
từ
bài
viết
của
anh
Điền
Thanh
đã
viết
trên
báo
VĂN
NGHỆ
TUẦN
BÁO
Sydney,
và
VIÊT
TRIBUNE
ở
Mỹ
hơn
10
năm
trứóc
liên
quan
đến
nghề
hát
như
sau:
Trích
từ
bài
THUỞ
RÚT
RUỘT
TẰM
Tác
giả
:
Điền
Thanh
".......Theo
Đại
Nam
Quốc
Âm
Tự
Vị
của
Paulus
Huỳnh
Tịnh
Của
(1895)
:
Vào
đời
vua
Đinh
Tiên
Hoàng
(thế
kỷ
thứ
10),
nghề
hát
đã
xuất
hiện
tại
Việt
Nam
ta
và
bà
Phạm
thị
Trân
là
người
đầu
tiên
có
công
khai
phá
ra
nghệ
thuật
Hát
Chèo.
Trải
qua
nhiều
biến
chuyển
theo
các
sự
kiện
lịch
sử
cho
đến
thế
kỷ
thứ
XVII
(17),
vào
năm
1631
Chúa
Sãi
Nguyễn
Phúc
Nguyên
thừa
kế
ngôi
cha
là
Chúa
Nguyễn
Hoàng
đã
phong
chức
Nội
Tán
Hầu
cho
ông
Đào
Duy
Từ,
trao
quyền
hành
dựng
và
giữ
nước
đồng
thời
cải
cách
về
văn
hóa
văn
học.
Ông
Đào
Duy
Từ
chấn
chỉnh
thêm
bộ
môn
Hát
Chèo
miền
Bắc,
còn
miền
Trung
và
trong
Nam
thì
ông
cho
phát
triển
ngành
Hát
Bộ,
còn
được
gọi
là
Hát
Bội,
ngoài
Bắc
gọi
là
Hát
Tuồng.
Thời
ấy
nước
ta
là
có
đến
những
12
nghề,
gọi
là
Thập
Nhị
Công
Nghệ
gồm
có
:
CÔNG
,HẦU,
KHANH,
TƯỚNG,
SỈ,
NÔNG,
CÔNG,
THƯƠNG,
NGƯ,
TIỀU,
CANH,
MỤC.
*Trong
12
nghề
trên
phần
Công
Hầu
Khanh
Tướng
:
hầu
hết
là
những
người
có
nghề
làm
việc
tùy
theo
chức
vụ
trong
triều
đình.
Ví
dụ
điển
hình
như
ông
Đào
Duy
Từ
giữ
chức
Nội
Tán'
Hầu'
như
đã
kể
ở
trên,
hay
Quốc
'Công'
Lý
Thường
Kiệt,
Hoài
Văn
'Hầu'
Trần
Quốc
Toản
.v..v.
*
8
nghề
còn
lại
là
Sĩ
(
người
có
học
thức
như
thầy
giáo,
y
sĩ..)
Nông
(người
làm
nghề
nông
nghiệp)
Công
(
người
công
nhân
thợ
mộc,
thợ
hồ...)
Thương(
người
buôn
bán
)
Ngư
(
người
làm
nghề
săn
bắt
cá
biển)
Tiều(
tiều
phu
đốn
cũi
trên
rừng)
Canh
(
là
người
canh
tác
nghiên
cứu
về
trồng
trọt)
Mục
(
là
mục
đồng
chăn
trâu,
chăn
gà,
chăn
vịt
v.v..)
Trong
12
nghề
đó
là
12
nghề
gần
gũi
và
quen
thuộc
nhất
trong
xã
hội
VN
thời
bấy
giờ.
Riêng
nghề
hát
lại
không
có
tên
trong
sắp
xếp
của
triều
đình,
lý
do
là
vì
ngày
xưa
nghề
hát
thường
được
tổ
chức
trong
triều
đình
để
phục
vụ
cho
cung
vua.
Có
những
ban
hát
nhỏ
ở
đình
làng
lập
nên,
cũng
không
hẵn
là
cái
nghề
chuyên
môn,
mà
là
những
người
dân
quê
thích
hát
rồi
lập
thành
ban
hát,
hát
cho
vui
theo
tùy
hứng
chứ
không
phải
là
cái
nghề
mưu
sinh
chuyên
nghiệp.
Cho
đến
giai
đoạn
nghề
hát
trở
thành
chuyên
nghiệp
rồi
thì
người
ta
nhìn
lại
trong
'Thập
Nhị
Công
Nghệ'
,
nghề
hát
không
thuộc
loại
nào
trong
đấy,
do
đó
người
ta
mới
gọi
nghề
hát
là
vô
loại
tức
là
không
thuộc
loại
nào
trong
12
nghề
trên.
Nghề
hát
được
cho
tổ
chức
quy
mô
đầu
tiên
là
nhờ
vua
Trần
Nhân
Tông
(
Sau
khi
thắng
giặc
Nguyên
Mông
,
ông
thu
dụng
tù
binh
Lý
Nguyên
Cát
_nguyên
là
nghệ
sĩ
Kinh
Kịch
về
triều
đình
dạy
đàn
ca
múa
hát
và
phát
triển
bộ
môn
Hát
Bội
trong
cung
đình)
.
Nhưng
thời
biết
quý
trọng
nâng
niu
nghề
hát
đình
đám
nhất
là
trong
thời
nhà
Nguyễn.
Cả
vua
lẫn
quan
đều
đam
mê
và
yêu
thích
Hát
Bội
lắm
!
Quan
như
ông
Lê
văn
Duyệt,
ông
Nguyễn
văn
Thành
...chẳng
những
mê
mà
còn
hát
được,
đánh
trống
chầu
cũng
được,
Vua
thì
có
vua
Thành
Thái,
vua
Minh
Mạng,
vua
Tự
Đức,
vua
Khải
Định..
..rất
am
tường
Hát
Bội.
Còn
mê
nhiều
nhất
đến
tự
đặt
tên
cho
mình
là
những
nhân
vật
trong
các
vở
tuồng
là
vua
Đồng
Khánh.
Còn
có
tài
liệu
kể
thêm
rằng
trước
khi
ông
Nguyễn
Huệ
lập
nghĩa
quân
Tây
Sơn,
ông
Huệ
còn
có
biệt
tài
hát
Bội
Bình
Định
rất
khá....
Lâu
ngày
dài
tháng
,
nhất
là
những
thời
loạn
lạc,
văn
hóa
văn
học
có
nhiều
khoảng
thời
gian
không
ổn
định,
khi
người
có
chút
chức
quyền
nhưng
lại
hiểu
sai,
hiểu
không
tới
hoặc
có
xu
hướng
kỳ
thị
...thì
những
ý
nghĩa
đúng
đắn
ban
đầu
đã
bị
sai
lệch
đi
qua
lăng
kính
của
mấy
vị
quan
hạn
chế
tri
thức
này...
Tuy
nhiên,
sự
việc
gì
cũng
có
dư
luận
trái
chiều
nhau
.
Nếu
có
điều
kiện
nghiên
cứu
thêm
cho
ta
thấy
còn
có
nhiều
nguồn
cho
là
''Xướng
Ca
Vô
Loại
''là
theo
hướng
xấu,
hướng
tiêu
cực
cũng
có
nguyên
nhân
và
cũng
được
một
số
học
giả
ghi
lại
như
nhà
nghiên
cứu
Toàn
Ánh
trong
"
Phong
tục
Viêt
Nam
(NXB
Khai
Trí,
Sài
Gòn,
1969,
tr.429)
cho
rằng
“vô
loại”
liên
quan
tới
quan
niệm
“vô
luân”
của
người
xưa
như
sau:
“Xã
hội
ta
xưa
quan
niệm
lũ
xướng
ca
vô
loại
là
một
tầng
lớp
vô
luân.
Họ
bị
coi
là
vô
luân
không
phải
vì
họ
sa
đọa,
chính
sự
sống
của
họ
cũng
không
phải
là
sa
đọa,
mà
chỉ
vì
những
vai
trò
của
họ
đóng
khi
xướng
hát:
họ
bị
coi
là
vô
luân
ở
đây
vì
người
con
có
thể
đóng
một
vai
vua
và
người
cha
đóng
vai
bầy
tôi
quỳ
lạy,
anh
em
ruột
có
thể
đóng
đôi
vợ
chồng,
và
vợ
chồng
lại
có
thể
đóng
vai
mẹ
con
hoặc
cha
con...
Tất
cả
cái
vô
luân
là
ở
đây,
ở
đấy
luân
thường
đã
không
còn
nữa,
mặc
dầu
chỉ
trong
những
lúc
trình
diễn”.
Đó
là
một
cách
giải
thích
theo
quan
niệm
của
tầng
lớp
chống
đối
dưới
thời
vua
Lê
chúa
Trịnh,
được
nhà
nghiên
cứu
Toàn
Ánh
ghi
lại,
và
đó
cũng
là
lý
do
mà
trong
xã
hội
Việt
Nam
ngày
xưa
có
nhiều
nhân
vật
nổi
tiếng
bị
hậu
quả
là
chịu
sự
khắt
khe
cổ
hủ
ấy.
Nhân
vật
nổi
tiếng
trong
sự
kiện
này
chính
là
ông
Đào
Duy
Từ(
1572_1634)
trước
khi
làm
quan
thời
Nguyễn,
ông
đã
bị
cấm
vào
trường
thi
vì
có
thân
phụ
làm
nghề
ca
hát.
Nhưng
quan
điểm
thế
này
hay
thế
khác
thuận
hay
nghịch
cũng
tùy
thuộc
vào
quan
điểm
của
từng
triều
đại
cai
trị
đất
nước.
Nếu
thời
nhà
Trần
bắt
đầu
từ
vua
Trần
Nhân
Tông
yêu
mến
nghề
ca
hát
và
tạo
điều
kiện
cho
phát
triển,
thì
qua
đến
thời
vua
Lê
chúa
Trịnh
nghề
ca
hát
bị
xem
rẻ
xem
thường.
Nhưng
sang
đến
thời
nhà
Nguyễn
thì
nghề
ca
hát
được
"lên
ngôi"
trân
trọng..."
trích
từ
bài
viết
(THUỞ
RÚT
RUỘT
TẰM_
Điền
Thanh)
Nhân
ngày
Giỗ
Tổ
Nghề
Hát
trở
lại
theo
thông
lệ
hằng
năm,
chịu
khó
ngồi
viết
lại
cho
con
cháu,
đàn
em,
hậu
sinh
sau
này
hiểu
thêm,
hiểu
đúng
đắn
về
Giỗ
Tổ,
về
nghiệp
dĩ
của
mình
tránh
những
sai
lệch
không
cần
thiết
làm
ảnh
hưởng
tiêu
cực
và
đi
quá
xa
với
những
nhận
thức
hạn
chế
thiếu
hiểu
biết,
nửa
vời.
Ước
mong
từ
rày
về
sau,
những
bạn
nào
có
điều
kiện
làm
việc
trước
công
chúng
xin
làm
ơn
nói
cho
đúng,
cho
chính
xác
ý
nghĩa,
đừng
bẻ
sai
lệch
ý
nghĩa
đúng
đắn
của
câu
chuyện
lịch
sử
về
văn
hóa
này.
Năm
nay,
có
lẽ
cúng
Tổ
không
vui
vì
nạn
dịch
tràn
lan...Người
còn
kẻ
mất
vẫn
còn
chưa
khô
lệ....Anh
chị
em
nghệ
sĩ
đã
không
có
cơ
hội
cúng
Tổ
cùng
nhau
,
gặp
gỡ
nhau
cũng
như
không
hát
được
một
xuất
hát
nào
để
dâng
lên
Tổ
nghiệp....
Buồn
quá
!
Kính
chúc
mọi
người
sức
khỏe
vạn
an
và
mong
rằng
đừng
phải
có
điều
gì
không
hay
xảy
ra
nữa
trong
văn
nghệ
sĩ
của
chúng
ta
Ý kiến bạn đọc