1. Cha làm nghề soát vé của chuyến tàu Bắc – Nam, nên cả gia đình cũng phải bồng
bế nhau trên những toa tàu. Tôi lọt lòng mẹ, nhau vừa chôn xuống còn nóng hổi,
tàu đã rời đi. Hun hút cánh đồng, hun hút rừng cây, tôi thường ngồi bám vào ô
cửa kiếng tàu, ngoái về phía sau, để ngơ ngác nhìn mọi thứ trôi vào hun hút. Tờ
giấy khai sinh, ô quê quán còn để trống, bởi ga nào cũng là đất, là quê. Những
đêm khuya khoắt, tàu vào ga tỉnh lẻ, giấc ngủ tròng trành trong tiếng rao gấp
rút, đèn neon xanh xao bên kia cửa kiếng, loang loáng vào đêm. Ngày ấy, tàu dừng
ga là lại đòi mẹ ôm xuống đất, để chân trần chạy nhảy cùng các anh, rồi bắt con
chuồn chuồn, ngắt cọng lau… Tàu kéo còi lại phải tiếc nuối leo lên toa, rồi bám
ô cửa kiếng nhìn mọi thứ trôi hun hút sau lưng.
Lên 7 tuổi, tôi được thỏa
khát khao chạm đất. Thời ấy Nhật Pháp đảo chính, cả gia đình dắt díu nhau chạy
loạn, rồi dạt về vùng rừng núi Gia Viễn, Ninh Bình. Thời ấy khó lắm, máy bay gầm
rú trên đầu, dưới chân rắn, vắt chực chờ cắn người, hút máu. Trẻ con mà, dù ở
trong hoàn cảnh nào, cứ được chơi là đã đủ vui. Nhưng tôi không được chơi nhiều,
bởi dân làng ít, bạn đồng lứa chẳng có ai. Núi rừng hoang vu quá, mỗi khi một
mình tôi hay hát để tự trấn an.
Mà tôi mê hát lắm, tôi theo cha gánh củi,
nghe tiếng hát cheo leo trên sườn núi, về bập bẹ hát theo. Tôi giúp mẹ thổi cơm,
thấy lửa bập bùng cũng nổi hứng nhẩn nha vài câu hát cũ. Rồi hát mọi lúc, mọi
nơi như một thói quen. 5 năm sau, giặc càn vào rừng, cha bỏ núi, tìm đường về
đồng bằng. Những ngày tháng ấy, không nơi nào lưu trú lại quá lâu. Khi thì Hà
Nội, lúc lại dạt về quê cha ở Phủ Lý, Hà Nam, khói cơm nhà lẩn khuất ở những
ngôi làng, vùng đất chưa kịp quen tên.
Chắc tại tôi lớn lên trên những
chuyến tàu xuôi ngược, nên vận số lang bạt kỳ hồ cũng cứ thế lẽo đẽo theo tôi.
Ngay cả cái nghề tôi chọn cũng phải rày đây mai đó, dầu dãi gió sương. Phải vài
năm sau cả gia đình mới “cắm dùi” được ở Hà Nội. Tôi theo cha, học đủ thứ nghề,
làm đủ thứ việc. Rồi vừa làm vừa hát cho vơi nhọc nhằn. Có lần, tôi đi đóng đinh
tán cho người ta, mang theo thói quen cũ hát theo nhịp… búa.
Tình cờ, ông
bầu Đoàn cải lương Chuông Vàng đi ngang qua, thấy tôi hát ngồ ngộ liền đặt vấn
đề, rồi từ đó tôi được đi học lớp diễn viên sân khấu trong trường của Sở Văn hóa
Hà Nội. Gian khổ quen rồi, vào trường lại thấy sướng, được nuôi cơm ba bữa, lại
được các thầy dạy hát, dạy biểu diễn và được cái lớn nhất trong đời, là duyên số
với vợ tôi – nghệ sĩ Thanh Dậu.
2.
Tường tận các ngón nghề, tôi đi hát. Tuy được làm kép chính, nhưng không hiểu
sao, trong lòng vẫn thấy thiếu thiếu một điều gì đó. Cái nôi của cải lương bắt
nguồn từ Nam Bộ, tôi là người Bắc nên khi ngân nga, “xuống xề” một câu vọng cổ,
tôi vẫn thấy chưa hay, chưa thỏa mãn sự mong mỏi được khám phá hết khả năng của
bản thân. May mắn sao, giai đoạn đó có một số nghệ sĩ miền Nam ra Bắc tập kết,
rồi hình thành nên Đoàn cải lương Nam Bộ. Lúc ấy, không hiểu sao, lòng tôi nôn
nao lạ kỳ.
Tôi muốn hát cải lương như một người Nam Bộ. Tôi bàn với vợ,
rồi hai vợ chồng cùng xin được về đây. Tôi thường nói với vợ, cứ đam mê là sẽ
làm được. Tôi cố gắng nói chuyện rất nhiều với anh em nghệ sĩ là người miền Nam
trong đoàn, học cách họ nói, học cách họ ca. Phải nói bằng một chất giọng khác,
hát bằng một kiểu cách khác, thật khó vô cùng. Nhưng rồi, mọi việc cũng dần ổn
thỏa.
Đã chọn là nghệ sĩ, phải chấp nhận một cuộc đời rày đây mai đó. Tôi
từ nhỏ đã quen với việc chưa kịp lưu luyến tình người, tình đất đã phải rời đi,
chỉ thương cho vợ tôi… Dù bà ấy cũng là đào chính, cũng một lòng đam mê, nhưng
nhìn vợ bụng mang dạ chửa, cùng theo tôi dãi nắng dầm sương, xót xa không biết
để đâu cho hết. Rồi con gái ra đời, hai vợ chồng tôi vẫn tiếp tục những chuỗi
ngày rong ruổi. Hễ vợ diễn thì chồng ẵm con, rồi đến lượt chồng ra sân khấu, vợ
phải lui vào bồng bế dỗ dành. Nhiều khi vợ tập tuồng mệt lả, trong giấc ngủ chập
chờn, còn giật mình lo con khóc. Thương vợ, và cũng sợ con khóc ảnh hưởng đến
những phút nghỉ ngơi ít ỏi của anh em, tôi ôm con ra gốc đa, gốc mít. Dỗ con ngủ
mà nghèn nghẹn lời ru.
Cũng may, đó là cái thời mà người ta sống bằng lý
tưởng. Thứ lý tưởng mạnh mẽ vô biên khiến tiếng hát vút lên trên lửa đạn, nghèo
đói có là gì, thiếu thốn chẳng hề chi. Củ khoai bẻ nửa cũng đủ sức diễn trọn một
lớp tuồng, máy bay gào thét trên đầu không làm run một hơi vọng cổ. Chúng tôi đã
trải qua một thời kỳ hoa lửa.
Năm 1975, tôi và vợ đi cùng Đoàn cải lương
Nam Bộ về Sài Gòn. Sau đó 1 năm, lại phải trở ra Hà Nội do thủ đô đang xây dựng
nhà hát cải lương, và rất cần anh em nghệ sĩ. Người xưa nói chí phải, cái nghề
là cái nghiệp. Nhiều khi ngẫm nghĩ, có khi, bởi mình sinh ra trên những chuyến
tàu, nên cuộc đời cứ ngược xuôi, đi về mải miết.
Cũng chẳng làm sao, bởi
con tàu phải chuyển bánh mới là sống đời của nó. Vào khoảng năm 1978 - 1979,
Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội được thành lập, tôi cùng vợ được vinh dự
là lớp học trò đầu tiên của ngôi trường này. Năm 1984, hai vợ chồng lại được
điều vào dạy tại thành phố Hồ Chí Minh. Tôi lại phải “rời ga” lần nữa, nhưng đợt
đi này cuối cùng cũng đã được dừng chân.
3. Tôi vào miền Nam không ít
lần, và khi đã định cư lại thấy lòng gắn kết nhiều hơn. Đặc sản vô giá của nơi
đây chính là con người. Cái tình, cái tính của người miền Nam chân chất quá. Và
phóng khoáng, và thật đến nao lòng. Chính vì yêu quá mảnh đất này, nên khi đóng
phim tôi, vào vai người Nam Bộ mà người ta vẫn thường nói đùa, “còn giống hơn
người Nam Bộ”.
Cũng bởi, tính tôi đã quyết định làm, thì phải làm cho đến
nơi đến chốn. Tôi không nề hà điều gì, chỉ sợ mình diễn chưa hay, mình làm chưa
tới, chứ bao gian nan trong nghề đã trải, còn ngại chi mấy điều khổ khó. Có lần,
tôi về Bình Thuận đóng phim, vai một lão ngư chuyên làm nước mắm. Để nhập tâm,
việc gì bà con đang làm là tôi cũng học theo.
Tôi cứ sang thùng này rải
muối, qua thùng nọ xếp cá, chạy tới chạy lui. Dân quanh vùng cứ kháo, không biết
ông này là diễn viên hay nhà làm mắm thứ thiệt mà cái gì cũng biết. Tôi cứ nhủ
thầm, coi vậy là mình hóa thân được rồi, tự nhiên thấy vui. Tính tôi hay dễ vui
vì những điều nho nhỏ.
Vai diễn ông Ba bắt rắn trong bộ phim Đất Phương
Nam đã khiến tôi định hình trong lòng khán giả như một ông già Nam Bộ điển hình.
Là ông Ba lành như hòn đất, cọng rau nhưng lại sẵn sàng dang tay che chở những
mảnh đời bất hạnh. Tôi cảm được cái tình trong từng hành động, cử chỉ của ông Ba
và cứ thế mà diễn, như ông Ba là chính cuộc đời của mình.
Cải lương là
niềm đam mê cả đời nhưng những bộ phim cũng cho tôi không ít. Điều lớn nhất tôi
đạt được chính là tình yêu thương của khán giả. Người ta thương một ông già Nam
Bộ, tuy hom hem nhưng quắc thước, nhỏ bé thôi mà cứng cỏi, can trường. Cho đến
bây giờ khi tôi nói tôi chính gốc miền Bắc đây, nhiều người vẫn cứ lắc đầu, cho
là tôi nói xạo.
4. Ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” tôi tự biết mình đã
già, mà ai già chắc hẳn cũng hay buồn, hay nhớ về những ngày xưa. Được cái, tôi
chưa bao giờ hối hận vì con đường mình đã đi, cái nghiệp mà mình lựa chọn. Chỉ
hay thấy cảm thương cho vợ tôi, một bên nhọc nhằn con cái, một bên theo đuổi
công danh, rồi lại phải tất bật vun vén, chưa bao giờ để tôi phật ý điều chi. Mà
nói thương thôi, thì chưa có đủ, phải gọi là tôi cảm kích vợ tôi. Tôi ngẫm nghĩ,
người ta gọi vợ, gọi chồng là “người bạn đời” quả không còn gì đúng
hơn.
Họ cưới nhau vì cái tình, mà để sống được với nhau thì còn cái
nghĩa. “Muối mặn gừng cay” là thế. Tôi yếu rồi, cũng đã về hưu, may còn có bà để
chăm nom nhau sáng tối. Giờ tôi đi đóng phim lác đác, có chuyến nào đi dài ngày,
thấy bà ấy lo là tôi lại tội. Bà gói ghém nào áo lạnh, thuốc ho, sợ trái gió trở
trời, sợ mưa, sợ nắng, cứ nghĩ đến điều gì có thể ảnh hưởng tới tôi là bà lại lo
nơm nớp. Bởi vậy tôi hay nói, nếu mà nhắc về tôi thì phải kể luôn cả vợ tôi, vì
cuộc đời, sự nghiệp của tôi gắn liền với bà ấy. Sướng vui cùng cam, gian khổ
cùng gánh chịu. Nói dại, thà cho tôi đi trước, chứ bà ấy có ốm đau gì chắc tôi
cũng không sống nổi.
Tự nhiên tôi lại nhớ về những chuyến tàu, nhớ về
những ngày tôi bám ô cửa kiếng, ngoái về phía sau đến trẹo cổ, tròn xoe ánh nhìn
hun hút. Lại tự cười, đã từ rất lâu tôi không còn tha thiết ngoái về phía sau
nữa, bởi tôi đã nhận ra rằng, bà ấy chính là ga dừng đỗ cuối cùng của cuộc đời
tôi
Hồ Ngọc Giàu
Ý kiến bạn đọc