CLVNCOM - Độc giả có thể đoán cá tính của soạn giả,ký giả ,nhà thơ Kiên giang qua chính những vần thơ của ông. Thơ Kiên giang dần bị lãng quên dường như được sống lại, đăng đầy ấp các báo giấy , báo mạng, khi ông về chốn vĩnh hằng vào ngày 30-10-2014. Những ngày tháng cuối đời ông vẫn tất bật chạy lên chạy xuống giữa quê ông và Sài Gòn, đôi khi lái xe "cánh én" ca tàn cổ lổ xỉ, đề lưu lại dấu vết xe Trâu, vết của tuổi thơ, của quê hương , của đất nước một thời hằn cơ cực, cuộc đời không may mắn, cái nghèo không buông một con người được cho là tài năng tầm cỡ, Vết xe trâu vẫn theo ông vào chốn vĩnh hằng.
Trong Thơ dáng người con hiếu thảo
Mẹ rắc hoàng hôn theo gạo trắng Cám bay phưởng phất quyện hương cao Nghiên nghiên bóng xế sau lưng Mẹ Gạo trắng như màu tóc trắng phau. ( sàn gạo ) Nhớ mùa cau trầu, trong vườn cũ Mẹ quét lá vàng ủ lấy phân Khói trắng lên trời như tóc bạc Con ngỡ khói tóc quyện mây Tần. Chiều nay dừng gót trên bờ biển Nhìn sóng bạc đầu mây trắng trôi Con ngỡ khói vườn hay tóc Mẹ Bay tìm con, lạc bước giữa đường đời.( Khói Trắng)
Trong thơ một người con yêu quê hương Chậu nhỏ đựng đầy hồn cố thổ Tác giả: Kiên Giang
Kỷ niệm một chuyến trở về thăm làng cũ (Đông Yên, U Minh Thượng)
Năm mươi năm, bỏ làng xa xứ Đầu bạc mới tìm về cố hương Quên mất Vàm ngoài sông Cái nước Không nghe gà gáy giữa canh sương
Khỉ hết chuyền cành bần hái trái Bông không còn rụng thả trôi sông Ngày thơ xé mắm ăn bần chín Bóng mát lung linh chở khẳm xuồng
Cây cầu dừa bắc ngang đường lở Trẻ quậy bùn sôi bến tắm mưa Nay đã xây cầu, hai mố đúc Mình quên là phải cái cầu xưa
Kìa sân phơi lúa thời thơ dại Con nít đá banh gọt bặp dừa Ai đá thua khum lưng, cõng bạn Bây giờ lập miếu nhớ người xưa
Đã cất lâu ngôi trường lợp ngói Trống da trâu đánh buổi đông trường Thầy cô ở huyện vô đây dạy Cha mẹ học trò đều mến thương
Thằng bạn cái thời tuổi tắm mưa Dắt mình tìm lại đất nền xưa Vẫn còn nguyên vẹn, không ai chiếm Tràm mọc đầy sân, mặc gió lùa
Ở chợ, người giàu giành hết đất Không nhà, tới chết vẫn long đong Sao chưa trở lại U Minh Thượng Hai đứa già ôm tuổi tắm mưa
Nắm chặt tay sần người bạn cũ Gượng cười, đứng ngắm cánh diều bay Còn mang nặng nợ văn chương đó Khó trở về quê lúc trắng tay Đứng giữa nền xưa sao muốn khóc Hàng ba giăng võng, mẹ ru con Sáu năm hồn mẹ vào thiên cổ Tiếng võng nhà bên gợi nỗi buồn
Vẫn tiếng cu gù thời trẻ dại Còn nghe gió hát lộng chồm tre Bến sông lở đất khơi dòng chảy Đông xóm xanh làng mát bóng quê
Móc đất giữa nền nhà bỏ trống Đựng đầy chiếc giỏ cuối đời người Đem hồn quê gởi nơi thành thị Giữ lấy cố hương giữa chợ đời
Chậu nhỏ đựng đầy hồn cố thổ Tiếng gà rừng gáy thuở khai hoang Ngỡ sông quê chảy vờn hương khói Nghe tiếng cu kêu sực nhớ làng.
Bài thơ kết cuộc đời nhà thơ
Từ lối mòn xưa ra đại lộ, Đường đời hoa nở vượt chông gai Kết duyên sân khấu, duyên văn học Nửa thế kỷ qua xế bóng rồi.
Chiều tàn cô độc, sống cô đơn Tan nát mấy lần chuyện vợ con Sự nghiệp chỉ còn mồ bản thảo Trận đời thua trắng giá tâm hồn.
Lợp mái lá, dừng manh vải cũ Nên mưa nhòa ướt ảnh bàn thờ Mẹ từ đáy mộ về trong mộng Trầm uất thương con giữa xác xơ. Không sa mạc vẫn làm du mục Chân lạc đà dừng tạm bãi hoang Mai mốt người ta hăm đuổi nữa Kiếp không nhà lại sống lang thang.
Bàn thờ Mẹ kê đầu tủ sách Đóng cây ván tạp, bạn láng giềng Má khổ suốt đời, con lận đận Thương con hồn Mẹ chắc linh thiêng
Trong thơ của Kiên Giang,cũng có những đôi lúc oan ức, bất công...ông chỉ biết dùng thơ để giải toả bức xúc...
Giết chậm giết mòn là thượng sách giết không gươm giáo mới siêu phàm cướp nhà đất cắt lương tăng đói Tung quả mù đen giả khói trầm Đốt đuột khó tìm người mặt thật Tắt đèn dễ thấy lũ ma trơi
(soạn giả,nhà văn,ký giả Nguyễn Phương..)
Thơ tiễn biệt Kiên Giang của Thiện Giả
Có một người con Mang tên của Đất Mang tên của sông Chuyên chở thơ tình Thơ đời dâu biển
Có một soạn giả Thầy tuồng cải lương Áo cưới cổng chùa Câu chuyện quê hương Đem vào tình sử
Có một ký giả Tiếng Chuông, Tiếng Dội Lập Trường, Điện Tín Ký giả ăn mày Yêu Hoa Áo Tím
Có một công dân Tên tuổi vang danh Văn thơ lai láng không hoá thành Ngân Sống đời nghèo khó
Kiên Giang Kiên Giang Tên sông tên đất Tên của người con Nương lời cầu nguyện Mặt trở lại hồng
Hồng tình nhân gian Thanh thản ra đi Cho bao thương xót Nhớ lắm Kiên Giang Vào lòng đất mẹ
Tôi được biết thi sĩ Kiên Giang vào năm 1995 trong buổi phát giải thưởng tại Củ Chi năm 1995 trong cuộc thi sáng tác "Củ Chi 20 năm xây dựng và phát triển". Ông đoạt giải nhất (thể loại Vọng Cổ) và ký tên thật là Trương Khương Trinh (vì lâu quá tôi không nhớ tên của bài ca đó là gì) tôi đoạt 3 giải Khuyến Khích qua các bài "Củ Chi chiến trường xưa" (Thể loại vong cổ), bài "Bà mẹ Củ Chi anh hùng" (thể loại tài tử, điệu Lưu Thủy Trường" và bài "Đất Thép đẹp ngàn hoa" (Thể loại dân ca). Hồi còn đi học, tôi đã thuộc bập bõm bài thơ "Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím" của ông. Sau này lớn lên, tôi rất thích bài thơ "Tiền và Lá". Hồi đó, để thuộc lòng một đoạn trong một bài thơ không hề dễ một chút nào. Thành ra vì vậy, bài thơ của thi sĩ nào mà được người đọc "nhập tâm" mà thuộc dù chỉ một đoạn, đó cũng là điều hết sức vinh hạnh. Vì một lẽ đơn giản, bài thơ đó được sự đồng cảm của người đọc. Và, lần thứ hai tôi gặp lại ông tại Chợ Mới -An Giang khi ông làm Chánh chủ khảo cuộc thi sáng tác (thời nhà thơ Trịnh Bửu Hoài làm chủ tịch Hội)Bài vọng cổ Hài "Tôi đi Chợ Mới" của tôi đoạt giải Nhì. Tôi rất thích cách nói chuyện "rất Nam Bộ" của ông. Vì tôi ở vùng sâu, vùng xa, nên khi nghe tin ông mất thì đã quá muộn màng. Thuở sinh thời, cố soạn giả Hải Đăng thường hay nhắc về ông, mỗi khi tôi và cố soạn giả Hải Đăng có dịp ngồi bên nhau trong những lúc "trà dư, tửu hậu" Theo cách nghĩ của riêng tôi. Nếu như ngoài Bắc, thi sĩ Nguyễn Bính được xem là nhà thơ "chân quê", thì ở trong Nam, chỉ có mỗi thi sĩ Kiên Giang là người có những bài thơ về nông thôn hay nhất. Xin được nói rõ, đây chỉ là cách nghĩ của riêng tôi mà thôi.