Sắp
tới
đây
là
kỷ
niệm
21
năm
ngày
thành
lập
trang
web
cailuongvietnam.com
(13/04/2004
-
13/04/2025)
Dây
là
trang
tin
tức
đầu
tiên
của
cailuongvietnam.com
từ
năm
2004.
Còn
đuọc
gọi
là
CLVNCOM1
.
Thân
mời
các
dộc
giả
xem
những
bằi
mới
hơn
tại
trang
tin
tưc
CLVNCOM2
theo
link
dưới
dây
https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Xem
tiếp...
NS
Hữu
Phước
CLVNCOM
-
Vào
những
năm
cuối
của
thập
niên
50
và
đầu
thập
niên
60
Có
thể
nói,
là
thời
điểm
thịnh
hành
của
các
vở
tuồng
cải
lương
Nhựt
Bổn
-
Hồi
xưa,
người
miền
Nam
thường
nói
là
nước
Nhựt
Bổn,
còn
học
địa
lý
thì
gọi
là
đất
nước
Nhật
Bản.
Từ
Hán
-
Việt,
Bổn
hay
Bản
về
mặt
ý
nghĩa
giống
như
nhau,
đó
chẳng
qua
là
do
“đồng
âm
tại
vị”.
Vào
thời
bấy
giờ,
không
có
ai
gọi
là
nước
Nhật
cả!
Vẫn
biết
rằng,
những
cách
gọi
trên
đều
đúng
Vào
thời
điểm
này,
vở
tuồng
cải
lương
“Khi
hoa
Anh
Đào
nở”
của
hai
cố
soạn
giả
tài
hoa
Hà
Triều
-
Hoa
Phượng
đã
đem
đến
sân
khấu
cải
lương
chẳng
khác
gìnhư
một
luồng
“gió
lạ!”,
đã
gặt
hái
thành
công
vang
dội
trên
sân
khấu
Thúy
Nga.
Và,
vai
kiếm
sĩ
Tô
Điền
Sơn
đã
làm
nên
tên
tuổi
cho
nam
nghệ
sĩ
Thành
Được.
Sau
đó,
hàng
loạt
các
vở
tuồng
cải
lương
Nhựt
Bổn
được
tiếp
tục
ra
đời,
cũng
tạo
được
thành
công
không
kém.
Trên
sân
khấu
Ngọc
Kiều
khai
trương
vở
“Tuyết
phủ
chiếu
Đông”,
qua
vai
kiếmsĩ
Nhựt
Bổn
-
Kha
Phong,
cố
nghệ
sĩ
Hùng
Cường
cũng
đã
làm
“tốn
hao
giấy
mực”
trang
báo
chí
kịch
trường
thời
bấy
giờ!
Và
ít
lâu
sau
đó,
tuồng
“Tiếng
Hạc
trong
trăng”
cũng
đã
làm
cho
khán
giả
mộ
điệu
cải
lương
đón
nhận
một
cách
nồng
nhiệt.
Nam
nghệ
sĩ
Thành
Được
một
lầnnữa,
qua
vai
tướng
cướp
cụt
tay
Thi
Đằng,
đã
làm
nức
lòng
người
mộ
điệu!
Một
điều
không
thể
không
nói
đến,
các
đoàn
cải
lương
thời
bấy
giờ
hát
tuồng
Nhựt
Bổn,
đều
ghi
vào
tấm
bảng
quảng
cáo
được
dựng
ở
mặt
tiền
của
rạp
với
hàng
chữ:
“Hân
hạnh
trình
diễn
vở
cải
lương
dã
sử
kiếm
hiệp
dân
tộc
Phù
Tang”
và
phía
dưới
là
tên
của
vở
tuồng.
Trong
tờ
PROGRAMME
(bây
giờ
gọi
là
tờ
bướm,
tờ
giới
thiệu
chương
trình.
NV)
cũng
vậy,
không
hề
thấy
đoàn
hát
nào
ghi
là
“vở
tuồng
Nhật”
hay
“tuồng
cải
lương
Nhựt
Bổn”.
Thế
nhưng,
khi
nhìn
qua
cụm
từ
“dân
tộc
Phù
Tang”,
khán
giả
sẽ
biết
ngay
đó
là
tuồng
cải
lương
Nhựt
Bổn
-
cho
dù
là
một
khán
giả
bình
dân
nhất!
Như
vậy
cũng
đủ
để
thấy,
khán
giả
mộ
điệu
cải
lương
ngày
xưa
về
trình
độ
nhận
thức
về
thể
loại
tuồng
tích,
cũng
không
hề
kém
cỏi
một
chút
nào!
Vào
thời
điểm
này,
cố
soạn
giả
-
nghệ
sĩ
nhân
dân
Viễn
Châu
không
hề
biên
soạn
một
vở
tuồng
cải
lương
Nhựt
Bổn
nào,
nhưng
ông
cũng
“nhạy
bén”
nắm
bắt
sự
kiện,
ông
viết
bài
vọng
cổ
“Men
rượu
Sa
Kê
“
do
nam
nghệ
sĩ
Hữu
Phước
ca
độc
chiếc
(ngày
xưa
không
dùng
từ
đơn
ca
như
bây
giờ.NV)
được
hãng
dĩa
thu
thanh.
Ngày
xưa,
do
kỹ
thuật
thu
thanh
qua
dĩa
đá,
sau
đó
là
dĩa
nhựa
45
tour
thời
gian
rất
là
hạn
hẹp,
có
lẽ
vì
vậy
mà
cố
soạn
giả
-
nghệ
sĩ
nhân
dân
Viễn
Châu
viết
liền
câu
vô
xuống
Hò
nhịp
16
liền
câu
1
mà,
không
“gối
đầu”
bằng
Nói
Lối
hay
Ngâm
Thơ,
hoặc
“gối
đầu”
bằng
một
bài
bản
nhỏ.
Dưới
đây
là
câu
số
1
của
bài
“Men
rượu
Sa
Kê”
do
cố
nghệ
sĩ
Hữu
Phước
ca.
(Xin
trích
dẫn)
Câu
1- Phương
Tử
ơi,
rượu
Sa
kê
nửa
bầu
vừa
uồng
cạn,
thì
thấp
thoáng
trước
thềm
rêu
đã
rơi
rụng
đóa
Anh
Đào…
Mấy
chén
ly
bôi
đã
khơi
dậy
chí
anh
hào…Xin
giả
từ
Trúc
Lan
Phương
Tử,
ta
ra
đi
giữa
bầu
trời
giá
lạnh
điểm
đầy
sao
(-)
Kìa,
cớ
sao
nàng
vội
vả
bước
ra
đi,
ta
chưa
nói
tiếng
biệt
ly
mà
đôi
mắt
nàng
nàng
đã
rưng
rưng
đôi
dòng
nước
mắt
Câu
2-
Có
lẽ
nàng
chẳng
nỡ
cười
ta
một
kiếm
sĩ
mang
nhiều
mơ
mộng,
tìm
yêu
qua
ánh
lửa
giữa
đêm
buồn…
Nàng
khuyên
ta
xây
dựng
tình
thương
trên
nhân
đạo
công
bằng…
Ta
mỉm
cười
khi
giả
biệt,
nhấp
cạn
chén
cuối
cùng
rồi
sảy
ngựa
dưới
trăng
(-)
Phương
Tử
ơi,
nàng
hãy
dứt
mấy
đường
tơ,
chung
rượu
tiễn
vì
ai
ta
uống
cạn.
Xin
hẹn
Đông
năm
sau
giữa
mùa
tuyết
trắng,
dưới
cội
Anh
Đào
nàng
hãy
đợi
chờ
ta. (ngưng
trích)
Bài
vọng
cổ
“Men
rượu
Sa
Kê”
của
cố
soạn
giả
-
nghệ
sĩ
nhân
dân
Viễn
Châu
gồm
các
câu:
1,2,4,5,6.
Nội
dung
của
bài
nói
lên
tâm
trạng
tiếc
thương
của
một
kiếm
sĩ
Nhựt
Bổn
dành
cho
nàng
ca
kỹ
là
Trúc
Lan
Phương
Tử
đã
hy
sinh
giết
giặc.
Trong
câu
4
của
bài
vọng
cổ
đã
nói
lên
hình
ảnh
cao
đẹp
này.
Cố
soạn
giả
-nghệ
sĩ
nhân
dân
Viễn
Châu
gối
đầu
câu
4
bằng
bốn
câu
thơ
Tứ
Tuyệt.
Điều
này,cũng
là
sở
trường
của
ông.
(Xin
trích
dẫn)
NGÂM
THƠ
Tuyết
trắng
bay
mờ
Phú
Sĩ
Sơn
Gió
Đông
rét
mướt
lạnh
can
trường
Gập
ghềnh
vó
ngựa
miền
quan
tái
Trên
quảng
đường
về
nặng
bước
chân
VỌNG
CỔ
4 - Một
đêm
không
trăng
ta
trở
lại
tìm
nàng
nơi
quán
lạnh,
Cớ
sao
chỉ
thấy
hoa
đào
rơi
từng
cánh
ở
bên
đường…
Hỏi
ra
mới
biết
người
năm
xưa
nát
ngọc
tan
vàng…
Nàng
muốn
mượn
chút
thân
bồ
liễu,
để
giết
quân
thù
cho
rõ
mặt
gái
Phù
Tang
(-)
Để
cho
ngàn
thu
sau,
thanh
sử
còn
ghi
mãi
danh
người
trinh
liệt.
Nhưngmấy
đường
tơ
của
nàng
ca
kỹ,
đâu
ngăn
nổi
bước
xâm
lăng
của
vó
ngựa
quân
thù. (ngưng
trích)
Nội
dung
bài
vọng
cổ
nói
lên
nỗi
niềm
của
một
kiếm
sĩ
Nhật
dành
cho
nàng
ca
kỹ
đã
hy
sinh
thân
mình
giết
quân
xâm
lược.
Cũng
có
thể,
vị
kiếm
khách
này
là
người
yêu
của
nàng
ca
kỹ,
hoặc
chỉ
yêu
nàng
với
một
mối
tình
đơn
phương.Phần
cuối
của
bài
vọng
cổ,
cố
soạn
giả
Viễn
Châu
kết
bằng
hai
câu
thơ
lục
bát:
-
Đêm
nay
dưới
cội
Anh
Đào
Ta
nhớ
thương
nàng
qua
men
rượu
Sa
Kê.
Có
những
nghệ
sĩ
bây
giờ
(vì
tế
nhị
xin
được
dấu
tên.
NV)
ca
lại
bài
“Men
RươuSa
Kê”,
nhưng
lại
vô
tư
giới
thiệu
là
Trúc
Lan
Phương
Tử.
Họ
lấy
bài
thơ
gối
đầu
vô
câu
số
4
gối
đầu
cho
câu
số
1.
(Vì
nguyên
tác
bài
ca,
câu
số
1
không
có
bài
thơ
gối
đầu,
mà
lại
vô
thẳng
vọng
cổ)
Có
những
“nghệ
sĩ”
ca
bài
này
họ
không
giữ
nguyên
bản
gốc,
lại
còn
thêm
thắt
đủ
điều.
Nghệ
sĩ
thời
nay
là
như
thế
đó.
Từ
nghệ
sĩ
đến
vô
sỉ
chỉ
một
khoảng
cách
rất
gần.
Họ
tùy
tiện
sửa
đổi
khuôn
mẫu
bài
ca
theo
ý
của
họ.
Họ
ca
bài
ca,
nhưng
họcũng
không
màng
tìm
hiểu
người
soạn
giả
viết
ra
bài
ca
đó
là
ai?
Có
thể
nói
tư
cách
của
một
nghệ
sĩ
hiện
nay,
họ
đã
đánh
mất
khá
nhiều!
Biết
đến
bao
giờ
sân
khấu
cải
lương
trở
lại
thời
hoàng
kim?
Và,
biết
đến
bao
giờtim
lại
được
cái
nhân
cách
của
người
nghệ
sĩ
ngày
xưa?
Như
vậy
cũng
đủ
để
khẳng
định.
Trúc
Lan
Phương
Tử
chỉ
là
tên
của
nhân
vật
trong
bài
ca,
chớ
không
phải
là
nhan
đề
của
bài
ca
như
bao
người
lầm
tưởng.
Màcái
tên
đích
thực
của
bài
vọng
cổ
này
là
“Men
Rượu
Sa
Kê”.
Chắc
chắn
là
như
thế!
Điều
này
cũng
tương
tự
như
vở
tuồng
cải
lương
“Tuyệt
Tình
Ca”
với
nhân
vật
“Ông
Cò
Quận
9”
do
cố
nghệ
sĩ
nhân
dân
Út
Trà
Ôn
đóng,
khán
giả
mến
mộ
vai
diễn
“ông
Cò”
nên
gọi
đó
là
tuồng...
“Ông
Cò
Quận
9”,
gọi
riết
rồi
thành
quen.
Tuy
nhiên,
giữa
hai
sự
kiện
hoàn
toàn
khác
nhau.
Với
tuồng
cài
lương
“Tuyệt
Tình
Ca”,
khán
giả
gọi
“Ông
Cò
Quận
9”
nhưng
vẫn
biết
tên
gốc
của
vở
là
“Tuyệt
Tình
Ca”.
Còn
bài
Vọng
Cổ
“Men
Rượu
Sa
Kê”,
nội
dung
kể
về
nhân
vậtnàng
ca
kỹ
Trúc
Lan
Phương
Tử,
người
ta
lấy
tên
của
nhân
vật
mà
đặt
cho
tên
cho
bài
ca.
Nguyên
nhân
là
vì
người
ta
không
còn
nhớ
tên
gốc
của
bài
ca
là
gì?
Có
thể
nói
ngày
nay,
do
trình
độ
“yếu
kém!”
Nên
ít
người
biết
đến
tên
của
bài
cagốc
là
“Men
rượu
Sa
-
Kê”,
nên
họ
mới
lấy
tên
nhân
vật
“Trúc
Lan
Phương
Tử”
trong
nội
dung
bài
ca
gọi
đó
là
nhan
đề
của
bài
ca.
Chớ
thực
sự
thì…
cái
tên
“cúng
cơm”
của
bài
là
“Men
Rượu
Sa
Kê”,
chớ
không
phải
là
“Trúc
Lan
Phương
Tử”
Sự
nhập
nhằng
như
đã
vừa
nêu,
vô
hình
trung
dẫn
đến
“hệ
lụy”
làm
“tam
sao
thất
bổn”
sau
này.
A
LÝ
PHƯỢNG
TUYỀN
Nguồn
tin:
A
LÝ
PHUƯỢNG
TUYỀN
-
CLVNCOM
Chú
ý:
Việc
đăng
lại
bài
viết
trên
ở
website
hoặc
các
phương
tiện
truyền
thông
khác
mà
không
ghi
rõ
nguồn
http://www.cailuongvietnam.com
là
vi
phạm
bản
quyền
Ý kiến bạn đọc