Đang
truy
cập
:
92
•Máy chủ tìm kiếm : 19
•Khách viếng thăm : 73
Hôm
nay
:
20815
Tháng
hiện
tại
:
730189
Tổng
lượt
truy
cập
:
110269891
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
LeThuy & My Chau
Từ
sau
1954,
cải
lương
phát
triển
mạnh
mẽ,
trở
thành
một
loại
hình
nghệ
thuật,
một
bộ
môn
sân
khấu
có
khả
năng
thu
hút
mỗi
đêm
hàng
triệu
khán
thính
giả
tại
các
sân
khấu
nhà
hát
hay
bên
chiếc
radio,
máy
hát.
1954-1975
là
giai
đoạn
xã
hội
Sài
Gòn
chịu
ảnh
hưởng
mạnh
mẽ
từ
sự
giao
lưu,
tiếp
biến
văn
hóa
Âu
Mỹ.
Đây
là
giai
đoạn
đầy
ắp
sự
kiện,
biến
động;
đồng
thời,
những
tài
năng
sân
khấu
được
phát
hiện
và
cống
hiến
cho
khán
thính
giả
mộ
điệu
những
vai
diễn,
vở
tuồng
được
xem
là
kinh
điển.
Các
nghệ
sĩ
rực
sáng
trong
thời
kỳ
này
có
thể
kể:
Út
Bạch
Lan,
Thanh
Nga,
Bích
Sơn,
Bạch
Tuyết,
Mộng
Tuyền,
Ngọc
Giàu,
Lệ
Thủy,
Mỹ
Châu,
Thanh
Thanh
Hoa,
Phượng
Liên,
út
Trà
Ôn,
Hữu
Phước,
Thành
Được,
Hùng
Cường,
Thanh
Tú,
Thanh
Sang,
Minh
Cảnh,
Minh
Phụng,
Minh
Vương,
Dũng
Thanh
Lâm,…
Những
soạn
giả
hoạt
động
mạnh
trong
thời
gian
này
như
Hà
Triều
–
Hoa
Phượng,
Nguyễn
Thành
Châu,
Nguyễn
Phương,
Thu
An…
cũng
đã
viết
những
vở
tuồng
mà
cho
đến
bây
giờ
vẫn
thu
hút
khán
giả
khi
được
dàn
dựng
lại
như
Nửa
đời
hương
phấn,
Tần
nương
thất,
Tuyệt
tình
ca,
Sân
khấu
về
khuya…
Những
vấn
đề
văn
hóa
xã
hội
và
những
hoạt
động
của
sân
khấu
cải
lương
của
Sài
Gòn
trong
giai
đoạn
này
đã
đan
quyện
vào
nhau,
phản
ánh
bức
tranh
văn
hóa
đầy
màu
sắc
của
xã
hội
đương
thời.
Thời
kỳ
này,
việc
tổ
chức
kinh
doanh
trong
hoạt
động
sân
khấu
cải
lương
đã
dần
hình
thành
những
yếu
tố
mang
tính
chuyên
nghiệp,
tạo
ra
những
nét
riêng
trong
văn
hóa
kinh
doanh
của
người
Sài
Gòn
ở
lĩnh
vực
sân
khấu
cải
lương.
Tổ
chức
kinh
doanh
cải
lương:
mô
hình
Công
ty
Kim
Chung
1954-1975
là
thời
kỳ
phát
triển
kinh
tế
Sài
Gòn
theo
hướng
thị
trường.
Các
mô
hình
hoạt
động
kinh
doanh
sân
khấu
cải
lương
như
lập
công
ty,
ký
hợp
đồng
lao
động,
chế
độ
lương,
thưởng
đối
với
diễn
diên
và
hoạt
động
kinh
doanh
theo
quy
định
của
luật
pháp
đương
thời
là
những
điều
chưa
hề
có
trên
sân
khấu
truyền
thống
trước
đây.
Thời
gian
này,
quan
hệ
giữa
bầu
gánh
và
các
nghệ
sĩ
theo
quy
chế
hợp
đồng
thời
gian.
Nghệ
sĩ
hát
hay,
được
nhiều
người
mến
mộ
thì
hợp
đồng
càng
cao.
Các
đào
kép
có
ký
hợp
đồng
và
tùy
thương
lượng
mà
có
các
loại
tiền:
tiền
thế
chân
(còn
gọi
là
tiền
ký
công
tra)
nhận
một
lượt
khi
mới
về
và
ký
giao
kèo
(tức
hợp
đồng),
tiền
lương
hàng
đêm,
tiền
thưởng
hàng
năm.
Trên
nguyên
tắc
là
như
vậy.
Khi
ký
hợp
đồng
có
thừa
phát
lại
chứng
kiến,
nếu
một
trong
hai
bên
vi
phạm
có
thể
kiện
nhau
ra
tòa
(1).
Công
ty
Kim
Chung
do
ông
Trần
Viết
Long
(bầu
Long)
làm
giám
đốc,
có
tiền
thân
là
đoàn
Kim
Chung
di
cư
vào
Nam
năm
1954,
gồm
các
đoàn
Kim
Chung
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7.
Bầu
Long
là
người
làm
kinh
doanh
nên
ông
chủ
trương
đào
tạo
đào
kép
trẻ,
ca
hay,
thu
đĩa
quảng
cáo,
nhờ
báo
lăngxê
nhằm
thu
hút
khán
giả.
Xuất
thân
từ
Kim
Chung
có
các
nghệ
sĩ
tài
danh
như:
Lệ
Thủy,
Mỹ
Châu,
Thanh
Kim
Huệ,
Tô
Kim
Hồng,
Minh
Cảnh,
Minh
Vương,
Minh
Phụng,
Thanh
Tuấn…
Các
đoàn
trong
công
ty
diễn
đủ
loại
tuồng
theo
thị
hiếu,
lấy
giọng
ca
thu
hút
người
xem.
Công
ty
Kim
Chung
là
một
tổ
chức
kinh
doanh
cải
lương
loại
lớn
thời
đó,
có
văn
phòng
ban
giám
đốc,
thư
ký
văn
phòng,
các
bộ
phận
chuyên
môn
và
tiền
bản
quyền
soạn
giả,
cập
nhật
từng
ngày
(2).
Với
cách
thức
ký
hợp
đồng
cùng
lương,
thưởng,
sự
thành
công
của
công
ty
cải
lương
Kim
Chung
cho
thấy
hình
thức
hoạt
động
kinh
doanh
tư
bản
đã
xuất
hiện
và
đi
sâu
vào
đời
sống
người
dân
Sài
Gòn.
Những
mặt
tốt
của
nó
rất
đáng
được
ghi
nhận:
tạo
sự
ràng
buộc
và
khuyến
khích
lao
động
nghệ
thuật,
chuyên
nghiệp
hóa
hoạt
động
sân
khấu,
có
hành
lang
pháp
lý
bảo
đảm
quyền
lợi
cho
nghệ
sĩ
lẫn
người
kinh
doanh
nghệ
thuật.
Công
nghệ
lăngxê
diễn
viên
-Giải
thưởng
sân
khấu
Thanh
Tâm
Sân
khấu
truyền
thống
Việt
Nam
trước
đây
không
có
giải
thưởng
chuyên
nghiệp
dành
cho
diễn
viên
cũng
như
tác
phẩm
sân
khấu.
Các
giải
thưởng
sân
khấu
được
hình
thành
thời
gian
này
như
là
một
công
cụ
để
lăngxê
diễn
viên,
thúc
đẩy
sự
phát
triển
nền
công
nghiệp
giải
trí,
khuyến
khích
và
khẳng
định
những
tài
năng
nghệ
thuật.
Giải
Thanh
Tâm,
được
thành
lập
nhằm
khuyến
khích
các
diễn
viên
cải
lương
trẻ
có
ý
thức
làm
nghề,
tôn
trọng
khán
giả
mộ
điệu,
giữ
gìn
đạo
đức,
có
ba
tiêu
chuẩn
để
chọn
là:
làn
hơi
(thanh),
sắc
vóc
(sắc)
và
đạo
đức.
Giải
do
ông
Trần
Tấn
Quốc,
một
nhà
báo
yêu
nước
kỳ
cựu,
một
ký
giả
kịch
trường
rất
ái
mộ
sân
khấu
cải
lương
tự
bỏ
tiền
ra
tổ
chức
từ
năm
1958,
phát
huy
chương
vàng
và
bằng
danh
dự
cho
những
nam
nữ
nghệ
sĩ
trẻ
có
triển
vọng
nhất
trong
năm.
Từ
năm
1965
có
thêm
giải
diễn
viên
xuất
sắc
nhất,
tuồng
hay
nhất
trong
năm.
Nhân
dịp
trao
giải,
một
tuồng
cải
lương
được
chọn
để
các
nghệ
sĩ
đoạt
giải
trình
diễn.
Trong
buổi
lễ
có
mời
nhiều
nhà
trí
thức,
quan
chức
và
khán
giả
đến
thưởng
thức
tài
nghệ
của
những
nghệ
sĩ
đoạt
giải.
Người
đầu
tiên
đoạt
giải
này
là
Thanh
Nga,
lúc
cô
vừa
tròn
16
tuổi.
Đêm
chính
thức
ra
mắt
giải
là
ngày
4-4-1959
tại
tửu
lầu
Bồng
Lai
(đường
Lê
Lợi).
Ban
tuyển
chọn
đầu
tiên
gồm
các
nghệ
sĩ
tiền
phong
như
Phùng
Há,
Bảy
Nhiêu,
Năm
Châu,
ký
giả
Trần
Tấn
Quốc
và
một
khán
giả
là
ông
Nguyễn
Hoàng
Minh
(công
chức).
Kể
từ
1959,
ban
tuyển
chọn
gồm
đông
đảo
các
thành
phần:
nghệ
sĩ
tiền
phong,
ký
giả,
soạn
giả…
Tồn
tại
đến
1967,
giải
Thanh
Tâm
đã
trao
nhiều
huy
chương
vàng
cho
các
diễn
viên
triển
vọng,
xuất
sắc
cũng
như
tuồng
cải
lương
hay
nhất
trong
năm
(3).
Hầu
như
tất
cả
các
nghệ
sĩ
đoạt
giải
Thanh
Tâm
đều
trở
thành
những
nghệ
sĩ
lớn,
có
công
lớn
trong
việc
phát
triển
sân
khấu
cải
lương
Sài
Gòn
sau
này.
Uy
tín
của
giải
thưởng
Thanh
Tâm
còn
được
thể
hiện
qua
cách
chấm
giải,
tiêu
biểu
như
trường
hợp
nghệ
sĩ
Lan
Chi,
huy
chương
vàng
Thanh
Tâm
1959.
Ban
giám
khảo
khi
chấm
giải
đã
đến
tận
các
đoàn
hát
xem
nghệ
sĩ
biểu
diễn.
Thời
điểm
đó
cô
đang
hát
cho
sân
khấu
Phước
Chung,
thường
lưu
diễn,
ít
khi
biểu
diễn
ở
Sài
Gòn.
Khi
giải
thưởng
được
công
bố,
công
chúng
Sài
Gòn
vẫn
còn
lạ
lẫm
với
tên
cô
và
dư
luận
hoài
nghi.
Tuy
nhiên,
đến
đêm
diễn
trong
lễ
trao
giải
Thanh
Tâm,
khán
giả
mới
có
dịp
thưởng
thức
tài
nghệ
của
cô
và
công
nhận
sự
sáng
suốt
của
ban
giám
khảo.
Có
thể
nói,
giải
Thanh
Tâm
là
một
trong
những
giải
thưởng
danh
giá
đầu
tiên
của
nền
công
nghiệp
giải
trí
non
trẻ
vừa
hình
thành
tại
Sài
Gòn.
Ra
đời
cùng
thời
gian
với
các
giải
thưởng
của
tân
nhạc
và
trước
cả
các
giải
thưởng
điện
ảnh
của
Sài
Gòn,
giải
thưởng
Thanh
Tâm
đã
thực
sự
tác
động
tích
cực
đến
sự
phát
triển
của
sân
khấu
cải
lương
Sài
Gòn
trong
giai
đoạn
1954-1975.
-Cách
viết
tuồng
theo
kiểu
đo
ni,
đóng
giày
Sân
khấu
truyền
thống
(chèo,
tuồng)
không
tồn
tại
cách
viết
tuồng
đo
ni,
đóng
giày
cho
diễn
viên.
Ngược
lại,
diễn
viên
phải
đi
theo
những
vai
diễn
được
xem
là
mẫu
mực
trong
nghệ
thuật
diễn
xướng.
Thậm
chí,
sân
khấu
phương
Tây
thời
điểm
1954-1975
cũng
không
phổ
biến
cách
viết
đo
ni,
đóng
giày
cho
diễn
viên.
Sân
khấu
phương
Tây
thời
đó
diễn
các
vở
kịch
kinh
điển
hay
hiện
đại,
đa
số
chọn
diễn
viên
phù
hợp
với
vai
diễn,
chứ
hiếm
khi
làm
ngược
lại
là
viết
cho
diễn
viên.
Cách
viết
vai
diễn
theo
kiểu
đo
ni,
đóng
giày
chỉ
ít
nhiều
phổ
biến
trong
phim
trường
Hollywood
thời
đó.
Do
tác
động
của
phim
ảnh
Âu
Mỹ
và
kinh
tế
thị
trường
tư
bản,
các
soạn
giả
cải
lương,
với
mục
đích
thu
hút
khán
giả
và
cũng
để
phát
huy
sở
trường
của
diễn
viên
(giọng
hát,
phong
cách
diễn
xuất),
đã
hình
thành
kiểu
viết
tuồng
đo
ni,
đóng
giày.
Hà
Triều
–
Hoa
Phượng
viết
vai
Hương
(Nửa
đời
hương
phấn)
là
dành
cho
giọng
hát
sầu
thảm
của
sầu
nữ
Út
Bạch
Lan,
vai
Thanh
(Tấm
lòng
của
biển)
và
Trinh
(Con
gái
chị
Hằng)
là
dành
cho
Thanh
Nga,
vai
Trường
An
(Tuyệt
tình
ca)
là
dành
cho
Bạch
Tuyết.
Những
vai
diễn
đó
phát
huy
tối
đa
sở
trường
về
ca,
diễn
của
người
diễn
viên,
đưa
họ
lên
đỉnh
cao
danh
vọng,
đồng
thời
cũng
tạo
nên
những
vở
diễn
không
những
ăn
khách
một
thời
mà
còn
đạt
được
giá
trị
nghệ
thuật
lâu
bền.
Cũng
có
những
vai
diễn
hay
vở
tuồng
được
viết
ra
là
để
phù
hợp
với
đội
ngũ
diễn
viên
của
đoàn
hát
lúc
đó.
Trong
những
năm
60
TK
XX,
đoàn
Dạ
Lý
Hương
sau
vài
lần
thay
đổi
diễn
viên,
cuối
cùng
còn
lại
cặp
Út
Trà
Ôn
–
Bạch
Tuyết
là
đào
kép
chính.
Lúc
bấy
giờ,
nghệ
sĩ
Út
Trà
Ôn
tuổi
đã
gần
50,
còn
nghệ
sĩ
Bạch
Tuyết
chỉ
mới
hai
mươi
mấy
tuổi
đời.
Sự
chênh
lệch
này
tạo
khó
khăn
không
nhỏ
khi
hai
người
cùng
diễn
cặp
trên
sân
khấu
và
cũng
gây
khó
khăn
cho
các
soạn
giả
thường
trực
của
đoàn.
Muốn
lấp
được
khoảng
cách
này,
phải
có
những
ngòi
bút
thật
tài
hoa,
viết
tuồng
theo
kiểu
đo
ni
đóng
giày,
cấu
trúc
từng
nhân
vật
có
tính
cách
đặc
biệt,
mới
có
thể
lôi
cuốn
được
đông
đảo
khán
giả
(4).
Soạn
giả
Hoa
Phượng
đã
thực
hiện
được
những
yêu
cầu
khó
khăn
đó,
ông
đã
viết
Tần
nương
thất
(Nỗi
buồn
con
gái)
làm
nổi
bật
thêm
tên
tuổi
nghệ
sĩ
Út
Trà
Ôn
trong
vai
ông
Lộ
và
nghệ
sĩ
Bạch
Tuyết
trong
vai
Tần.
Vai
diễn
này
đã
giúp
cô
đoạt
giải
diễn
viên
xuất
sắc
và
vở
tuồng
cũng
đoạt
giải
tuồng
hay
nhất
trong
năm
1965.
Sau
đó,
ông
viết
Tuyệt
tình
ca,
nghệ
sĩ
Út
Trà
Ôn
càng
thêm
sáng
chói
trong
vai
ông
cò
Quận
9.
Nghệ
sĩ
Bạch
Tuyết
trong
vở
tuồng
này
được
các
trang
báo
kịch
trường
thời
đó
tôn
vinh
là
cải
lương
chi
bảo,
qua
vai
Lê
Thị
Trường
An
có
số
phận
nghiệt
ngã.
Phong
cách
viết
tuồng
theo
kiểu
đo
ni,
đóng
giày
thể
hiện
tính
năng
động
của
sân
khấu
cải
lương
Sài
Gòn
đương
thời.
Mục
tiêu
của
nó
là
doanh
thu
của
đoàn
hát,
nhưng
cũng
tạo
nên
các
vai
diễn
đặc
sắc
hoặc
những
vở
tuồng
được
xem
là
mẫu
mực
của
sân
khấu
cải
lương
cho
đến
tận
ngày
nay.
Tính
mở
trong
hoạt
động
kinh
doanh
sân
khấu
cải
lương
-
Biến
đổi
cảnh
trí,
đưa
điện
ảnh
vào
sân
khấu
cải
lương
Tính
mở
thể
hiện
rõ
trong
trang
trí
sân
khấu.
Một
đội
ngũ
họa
sĩ,
thiết
kế
chuyên
nghiệp
đã
được
hình
thành
và
phát
triển
mạnh
trong
thời
gian
này.Khác
với
sân
khấu
truyền
thống
trước
đó,
sân
khấu
cải
lương
có
màn
nhung
phía
trước,
décor
fixe
(bức
phông
có
vẽ
nhà
cửa
hoặc
núi
rừng
tùy
theo
cảnh
ở
trong
tuồng)
và
nhiều
cánh
gà
vẽ
những
cảnh
cung
đình,
hay
rừng
núi…
Trường
phái
thật
và
đẹp
của
Nguyễn
Thành
Châu
thống
trị
sân
khấu
cải
lương
trong
thời
điểm
này.
Cảnh
trí
thật
như
cuộc
sống
thường
nhật,
cảnh
phòng
khách
với
bộ
salon,
tủ
buffet,
cảnh
phố
xá
được
tái
hiện
thật
và
đẹp
trên
sân
khấu
cải
lương
qua
tài
nghệ
của
họa
sĩ,
người
thiết
kế
sân
khấu.
Trong
những
năm
1950-1960,
các
nghệ
sĩ
đã
đưa
điện
ảnh
vào
sân
khấu
cải
lương,
làm
cảnh
trí
vô
cùng
sống
động.
Nghệ
sĩ
Bảy
Cao
là
người
đã
làm
một
cuộc
cách
mạng
này.
Gánh
hát
Hoa
Sen
của
ông
một
thời
nổi
tiếng
ăn
khách
nhờ
được
giúp
phương
tiện
dồi
dào,
lại
được
soạn
giả
Trần
Văn
May
cộng
tác
giao
cho
nghệ
sĩ
Bảy
Cao
các
vở
tuồng
thuộc
loại
chiến
tranh.
Đồng
thời,
nghệ
sĩ
Bảy
Cao
có
sáng
kiến
đưa
điện
ảnh
lên
sân
khấu
kết
hợp
với
cải
lương,
đem
lại
sự
mới
lạ
cho
khán
giả.
Các
vở
tuồng
Đoàn
chim
sắt,
Mộng
hòa
bình,
Nợ
núi
sông
có
điện
ảnh
chen
vào,
phim
màu
quay
cảnh
ở
Đà
Lạt
đẹp
mắt
thu
hút
mạnh
mẽ
khán
giả.
Đồng
thời,
các
cảnh
đường
phố,
xe
tăng,
máy
bay
được
mang
vào
sân
khấu
cải
lương
gây
hiệu
ứng
nghe
nhìn
mạnh
mẽ
cho
người
xem
(5).
Như
vậy,
cải
lương
với
tính
mở
của
nó
đã
dung
nạp
những
yếu
tố
mới
của
văn
hóa
phương
Tây.
Chính
vì
điều
đó
mà
đã
xảy
ra
trường
hợp
là
có
những
người
thị
dân
Sài
Gòn
lần
đầu
tiên
được
tiếp
xúc
với
phim
ảnh
không
phải
ở
rạp
chiếu
phim
mà
là
ở
rạp
hát
cải
lương.
Năm
2008,
vở
Chiếc
áo
thiên
nga,
được
đạo
diễn
Hoa
Hạ
dàn
dựng
tại
nhà
hát
Quân
khu
7,
cũng
đem
kỹ
thuật
phim
ảnh
vào
cải
lương,
chiếu
cảnh
sóng
biển,
thiên
nga
bay
trên
bầu
trời,
được
báo
chí
khen
ngợi
như
một
sự
mới
lạ,
đem
lại
sự
đổi
mới,
cách
tân
cho
sân
khấu
cải
lương.
Nhưng
thực
ra,
những
bậc
tiền
bối
của
sân
khấu
cải
lương
đã
làm
điều
đó
cách
đây
gần
50
năm,
khi
mà
điện
ảnh
chỉ
vừa
mới
phổ
biến
tại
Sài
Gòn.
-
Đặc
trưng
nghệ
thuật
biên
kịch
Một
trong
những
đặc
trưng
của
cải
lương
là
tính
tự
sự,
trữ
tình.
Tuy
nhiên,
với
sự
ảnh
hưởng
của
kết
cấu
kịch
bản
phương
Tây,
giai
đoạn
này
đã
có
những
vở
có
kịch
tính
cao,
kết
cấu
chặt
chẽ,
khoảng
10
phút
là
có
cao
trào
từ
tình
huống
cho
đến
lời
thoại,
tạo
sự
lôi
cuốn
khán
giả
như
một
kịch
bản
phim
Hollywood.
Trong
Sân
khấu
về
khuya
(Nguyễn
Thành
Châu),
cảnh
đầu
tiên
là
người
bạn
thân
của
vợ
chồng
Lĩnh
Nam
–
Giáng
Hương
báo
cho
Lĩnh
Nam
biết
là
anh
bắt
gặp
Giáng
Hương
đi
với
người
đàn
ông
lạ
mặt,
nhưng
Lĩnh
Nam
lại
không
ghen
mà
còn
đùa
cợt,
rồi
sự
xuất
hiện
của
Mỹ
Tiên,
người
tình
Lĩnh
Nam…
Tiết
tấu
vở
diễn
nhanh
và
cao
trào
liên
tục.
Trong
Tần
nương
thất
(Hà
Triều
–
Hoa
Phượng),
sự
xuất
hiện
đột
ngột
của
Đệ
do
anh
leo
rào
vào
nhà
trong
tình
huống
đối
thoại
gay
cấn
giữa
các
nhân
vật
trong
ngôi
nhà.
Tần
yêu
Đệ
ngay
từ
lần
đầu
gặp
mặt
trong
khi
cô
đang
đang
có
mang
với
một
gã
sở
khanh.
Suốt
tuồng
chỉ
có
2
cảnh,
6
vai,
xoay
quanh
một
câu
chuyện
thật
ngắn
gọn
về
mâu
thuẫn
tình
cảm
và
gia
đình.
Những
thắt
mở
nút,
cao
trào
liên
tục
xoay
quanh
cái
chết
của
người
chồng
Tần
có
liên
quan
đến
ông
Lộ,
mối
quan
hệ
thâm
thù
đến
phút
cuối
mới
được
làm
rõ
của
cha
ruột
anh
Đệ
và
anh
em
ông
Lộ,
sự
chuyển
biến
tâm
lý
trong
mối
quan
hệ
yêu
đương
chớm
nở
của
cô
Tần
và
anh
Đệ.
Vở
diễn
lôi
cuốn
người
xem
với
nhiều
kịch
tính
đan
cài.
Nghệ
thuật
viết
cải
lương
thời
kỳ
này
có
một
đặc
điểm
đáng
chú
ý
là
thời
gian
của
cốt
truyện
được
rút
ngắn,
cô
đọng,
bị
ảnh
hưởng
ít
nhiều
bởi
luật
tam
duy
nhất
ở
kịch
cổ
điển
Pháp
(thời
gian,
không
gian,
hành
động).
Tiêu
biểu
cho
cách
viết
này
là
phong
cách
của
cặp
soạn
giả
nổi
tiếng
và
tiêu
biểu
trong
giai
đoạn
1954-1975
Hà
Triều
–
Hoa
Phượng.
Câu
chuyện
của
hai
ông
thường
chỉ
gói
gọn
trong
khoảng
mươi
ngày,
một
khoảng
thời
gian
ngắn
ngủi
nhưng
đậm
đặc,
trĩu
nặng
bằng
mấy
mươi
năm.
Cái
hay
của
Hà
Triều-
Hoa
Phượng
là
khéo
chọn
được
một
thời
điểm
có
ý
nghĩa
nhất,
có
khả
năng
soi
sáng
quá
khứ
và
hé
mở
tương
lai
của
nhân
vật,
là
hiện
tại,
không
có
hồi
tưởng
hay
phục
hiện,
tránh
được
cái
dài
lê
thê,
kịch
tính
của
vở
dồn
dập,
lôi
cuốn
hơn.
Ví
dụ:
Rồi
ba
mươi
năm
sau
là
chuyện
ân
oán
kéo
dài
hai
thế
hệ.
Vở
diễn
bắt
đầu
khi
nhà
văn
Long
đoạt
giải
thưởng
văn
chương.
Vừa
thành
đạt,
Long
đã
nghĩ
đến
việc
trả
thù
mà
anh
coi
đồng
nghĩa
với
việc
trả
hiếu
cho
cha.
Và
chỉ
trong
mười
ngày
đó,
câu
chuyện
ân
oán
của
ba
mươi
năm
được
phơi
bày
ra
trước
mắt
khán
giả
(6).
Nghệ
thuật
biên
kịch
trong
giai
đoạn
này
ảnh
hưởng
rất
nhiều
phong
cách
Âu
Mỹ
qua
phương
pháp
xây
dựng
kịch
tính.
Nó
góp
phần
thu
hút
người
xem,
đồng
thời
cũng
tạo
nên
một
bước
ngoặt
trong
nghệ
thuật
viết
kịch
bản
cải
lương.
-
Tân
nhạc
xuất
hiện
trên
sân
khấu
cải
lương
Đây
là
thời
kỳ
xuất
hiện
tân
cổ
giao
duyên.
Trên
sân
khấu,
những
bản
tân
nhạc
cũng
được
đưa
vào
cải
lương.
Bài
Mưa
rừng,
được
nhạc
sĩ
Huỳnh
Anh
sáng
tác
cho
vở
cải
lương
cùng
tên
của
Hà
Triều
–
Hoa
Phượng
trên
sân
khấu
Thanh
Minh
–
Thanh
Nga,
đã
vượt
ra
khỏi
vở
cải
lương
và
có
đời
sống
độc
lập
của
nó.
Điều
đặc
biệt
là
nhạc
sĩ
Huỳnh
Anh
sáng
tác
bài
này
là
dành
riêng
cho
giọng
hát
Thanh
Nga.
Trong
các
vở
như
Nửa
đời
hương
phấn,
Tuyệt
tình
ca…,
các
bản
tân
nhạc
cũng
được
sáng
tác
riêng
cho
vở
diễn,
phục
vụ
cho
việc
diễn
tả
tâm
trạng
nhân
vật.
Những
bản
tân
nhạc
mang
âm
hưởng
phương
Tây,
chủ
yếu
sử
dụng
điệu
bolero
hay
slow,
mang
tính
tự
sự
hoàn
toàn
phù
hợp
với
cải
lương
và
nâng
cao
hiệu
ứng
cảm
xúc
cho
khán
giả.
Ngoài
cây
đàn
guitar
phím
lõm
nổi
tiếng,
đàn
violin
cũng
được
sử
dụng
trong
những
đoạn
cần
tạo
hiệu
ứng
bi
thương.
Riêng
ở
lĩnh
vực
băng
đĩa,
tiếng
đàn
piano
còn
được
sử
dụng
ở
những
đoạn
chuyển
cảnh
hay
báo
hiệu
sự
xuất
hiện
nhân
vật
mới.
Chúng
ta
có
thể
thấy
hiệu
quả
âm
thanh
khi
sử
dụng
tiếng
violin
và
piano
trong
các
đĩa
cải
lương
thời
kỳ
1954-1975
như
Nửa
đời
hương
phấn
(với
Thanh
Nga,
Thành
Được…),
Tuyệt
tình
ca
(với
Bạch
Tuyết,
Út
Trà
Ôn,
Hùng
Cường…)…
Đây
cũng
là
thời
kỳ
xuất
hiện
phong
trào
nhạc
trẻ
tại
Sài
Gòn.
Giới
trẻ
bắt
đầu
yêu
thích
và
hát
ca
khúc
của
The
Beatles,
Elvis
Plesley,
Francois
Hardy,
Christophe…
Vì
vậy,
trong
các
vở
cải
lương
tâm
lý
xã
hội
cũng
xuất
hiện
những
đoạn
nhạc
nước
ngoài
như
Love
story
trong
Tuyệt
tình
ca.
Tuy
xuất
hiện
ít
và
ngắn,
nhưng
nó
phù
hợp
với
tình
huống
vở
diễn
và
miêu
tả
đúng
đời
sống
tinh
thần
của
thanh
niên
đương
thời.
Có
thể
nói,
khi
nghe
lại
các
đĩa
cải
lương
tâm
lý
xã
hội
trong
giai
đoạn
1954-1975,
ta
có
thể
tìm
thấy
nhiều
nét
âm
nhạc
phương
Tây
cũng
như
sự
ảnh
hưởng
của
nó
trong
đời
sống
tinh
thần
của
người
Sài
Gòn
đương
thời.
Có
thể
giải
thích
hiện
tượng
này
bằng
tính
mở,
tiếp
nhận
có
chọn
lọc
âm
nhạc
phương
Tây,
góp
phần
cho
cải
lương
đi
sâu
vào
đời
sống
của
người
dân,
đồng
thời
phản
ảnh
đầy
đủ
những
chuyến
biến
văn
hóa
của
một
xã
hội
đang
tiếp
xúc
mạnh
mẽ
với
văn
hóa
Âu
Mỹ.
-
Đổi
mới
nghệ
thuật
diễn
xuất
Nghệ
thuật
biểu
diễn
trong
giai
đoạn
này
thật
mà
đẹp,
không
còn
ước
lệ
như
sân
khấu
truyền
thống.
Diễn
viên
dùng
giọng
thật,
tự
nhiên.
Phong
cách
diễn
xuất
tả
thực
của
phim
ảnh
Âu
Mỹ
đã
tác
động
lớn
đến
diễn
xuất
của
các
nghệ
sĩ
cải
lương
Sài
Gòn
đương
thời
vốn
rất
năng
động
trong
tiếp
thu
cái
mới.
Vai
diễn
Phà
Ca
của
Thanh
Nga
trong
Người
vợ
không
bao
giờ
cưới
đã
đem
đến
cho
cô
huy
chương
vàng
Thanh
Tâm
năm
đầu
tiên
1958.
Ký
giả
kịch
trường
Thanh
Tâm
–
Trần
Tấn
Quốc
đã
hết
lời
khen
trên
báo
chí
rằng
“một
Thanh
Nga
xuất
thần,
diễn
như
kịch”,
nghĩa
là
rất
thật,
rất
chính
xác
nội
tâm
nhân
vật
(7).
Trong
Sân
khấu
về
khuya,
diễn
xuất
của
Thanh
Nga
thật
tự
nhiên
như
trong
phim
điện
ảnh,
nhất
là
đoạn
nhân
vật
Giáng
Hương
nằm
ngả
lưng
trên
ghế
salon
dài
nói
chuyện
với
Lĩnh
Nam
(Thành
Được)
đang
đứng
phía
sau
ghế.
Thậm
chí
khi
nhìn
lại
tấm
ảnh
chụp
diễn
xuất
của
các
diễn
viên
trong
khoảng
khắc
đó,
người
xem
có
cảm
giác
như
nó
được
chụp
từ
một
vở
kịch
hay
bộ
phim
nào
đó
chứ
không
phải
được
chụp
trên
sân
khấu
cải
lương.
Để
diễn
vai
cậu
Tư
Kiên
trong
Con
gái
chị
Hằng,
mỗi
buổi
sáng
khoảng
5
giờ,
nghệ
sĩ
Hữu
Phước
phải
chạy
xe
qua
cầu
chữ
Y,
đứng
trước
cửa
lò
heo
Chánh
Hưng,
quan
sát
những
người
lái
heo,
dân
thôn
quê
chở
ghe
heo
lên
Sài
Gòn
bán.
Ông
quan
sát
cách
ăn
mặc,
quần
áo,
hút
thuốc
rê,
tư
thế
đứng,
ngồi,
ăn,
uống,
nói
chuyện,
cách
phát
âm
giọng
miền
Tây,
mất
3
tháng
thực
tập
vai
diễn
ở
nhà,
nhìn
vô
kiếng,
diễn
đúng
các
động
tác
thói
quen
của
một
người
dân
quê
miền
Nam
(8).
Trong
các
vở
kiếm
hiệp,
diễn
viên
khi
đấu
kiếm
là
dùng
kiếm
thật
trên
sân
khấu
(trong
khi
hiện
nay
là
dùng
kiếm
đạo
cụ).
Diễn
viên
phải
có
thày
dạy
võ
thuật
và
đấu
kiếm.
Chuyện
bị
thương
chảy
máu
hay
tai
nạn
trên
sàn
diễn
là
điều
bình
thuờng.
Có
lẽ
vì
vậy
mà
hình
tượng
hiệp
sĩ
hay
khách
giang
hồ
trên
sân
khấu
rất
mạnh
mẽ
và
lôi
cuốn
người
xem,
bởi
diễn
viên
phải
có
thể
hình
mạnh
mẽ
mới
có
thể
sử
dụng
thuần
thục
các
binh
khí
thật.
Các
diễn
viên
cải
lương
đương
thời
như
Thanh
Nga,
Bạch
Tuyết,
Mộng
Tuyền,
Bích
Sơn,
Thanh
Tú,
Thành
Được,
Hùng
Cường,
Ngọc
Giàu…
đều
có
lối
diễn
xuất
tả
thực,
đi
sâu
vào
nội
tâm
nhân
vật.
Những
vở
được
thu
vào
băng
đĩa
thời
gian
này,
được
phát
hành
lại
những
năm
gần
đây
đã
minh
chứng
cho
điều
đó.
Dù
chỉ
nghe
nghệ
sĩ
diễn
qua
ca,
thoại
nhưng
người
nghe
vẫn
cảm
thấy
nét
thật
và
rất
kịch
nghệ,
phim
ảnh
trong
diễn
xuất.
Đáng
tiếc
là
về
sau,
cũng
chính
những
nghệ
sĩ
đó
lại
diễn
theo
xu
hướng
ước
lệ,
làm
mất
đi
nét
thật
mà
đẹp
trên
sân
khấu
giai
đoạn
này.
Phải
chăng
chính
lối
diễn
xuất
tả
thực
đó
đã
giúp
nghệ
sĩ
cải
lương
dễ
dàng
bước
sang
điện
ảnh
và
một
số
trở
thành
minh
tinh
điện
ảnh
nổi
tiếng
của
Sài
Gòn
giai
đoạn
1954-1975?
Và,
phải
chăng
sự
lên
ngôi
của
lối
diễn
xuất
ước
lệ
đã
góp
phần
tạo
nên
sự
đi
xuống
của
sân
khấu
cải
lương
hiện
nay?
Sân
khấu
cải
lương
Sài
Gòn
giai
đoạn
1954-1975
đã
cho
ra
đời
và
nuôi
dưỡng
những
tài
năng
sân
khấu
được
xem
là
thế
hệ
vàng
của
sân
khấu
cải
lương.
Những
công
trình
nghiên
cứu
trước
đây
về
sân
khấu
cải
lương
trong
giai
đoạn
này
thường
có
cái
nhìn
phiến
diện,
một
chiều,
nhấn
mạnh
những
tiêu
cực
của
nó.
Chúng
ta
cần
phải
có
cái
nhìn
biện
chứng
hơn
về
một
giai
đoạn
đầy
biến
động
của
sân
khấu
cải
lương.
Chú
thích:
1,
2,
3.
Nguyễn
Thị
Minh
Ngọc,
Đỗ
Hương,
Sân
khấu
cải
lương
ở
TP.HCM,
Nxb
Văn
hóa
Sài
Gòn,
TP.HCM,
2007,
tr.121,
185,
129.
4.
Phạm
Hà
Nam,
Hai
kịch
bản
Nỗi
buồn
con
gái
và
Tuyệt
tình
ca
giúp
nghệ
sĩ
Út
Trà
Ôn
thêm
sáng
chói,
http://www.cailuongvietnam.com/
5.
Ngành
Mai,
Nghệ
sĩ
Bảy
Cao
và
gánh
hát
Hoa
Sen,
http://tranquanghai.info/
6.
Nguyễn
Phương,
Một
trong
những
chất
men
trong
tác
phẩm
của
Hà
Triều
–
Hoa
Phượng,
cailuongvietnam.com
7.
BSK,
Vở
cải
lương
Người
vợ
không
bao
giờ
cưới
và
những
chuyện
trong
hậu
trường
xưa,
cailuongvietnam.com
8.
Trần
Trung,
Nam
nghệ
sĩ
Hữu
Phước,cailuongvietnam.com
Nguồn:
Tạp
chí
VHNT
số
322,
tháng
4-
2011
Mã
an
toàn:

Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Ý kiến bạn đọc