Đang
truy
cập
:
50
•Máy chủ tìm kiếm : 5
•Khách viếng thăm : 45
Hôm
nay
:
534
Tháng
hiện
tại
:
1284215
Tổng
lượt
truy
cập
:
97602961
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Vẻ Độc Đáo Trong Các Điệu Hát Của Nghệ Thuật Hát Bội
Đông
Nghệ
sĩ
Ngọc
Bày
trong
một
trích
đoạn
hát
bội
Nghệ
thuật
mang
tính
tượng
trưng,
ước
lệ
Hát
Bội
là
một
nghệ
thuật
truyền
thống
lâu
đời
của
Việt
Nam,
trong
đó
các
yếu
tố
ca,
vũ,
nhạc
được
kết
hợp
một
cách
hài
hòa
khi
biểu
diễn.
Nghệ
thuật
này
vừa
chứa
đựng
yếu
tố
của
sân
khấu
cổ
điển
lại
vừa
chứa
đựng
những
yếu
tố
của
sân
khấu
hiện
đại.
Yếu
tố
sân
khấu
cổ
điển
của
nghệ
thuật
Hát
Bội
là
những
điệu
hát,
điệu
múa
được
đúc
kết
trở
thành
khuôn
vàng
thước
ngọc.
Từ
cảnh
trí
sân
khấu,
điệu
bộ
vũ
đạo
đến
cách
hát
và
cách
vẽ
mặt
vừa
cường
điệu
vừa
tượng
trưng,
ẩn
dụ,
khiến
người
xem
phải
am
tường
bộ
môn
này
mới
thưởng
thức
được
cái
hay
của
nghệ
thuật.
Yếu
tố
hiện
đại
thì
ở
chỗ
người
nghệ
sĩ
khi
biểu
diễn
trên
sân
khấu
không
cần
cảnh
trí.
Nghệ
sĩ
Hát
Bội
Ngọc
Bày
(Từng
là
giảng
viên
dạy
Hát
Bội
tại
Trường
Quốc
Gia
Âm
Nhạc
Sài
Gòn)
cho
rằng
sở
dĩ
sân
khấu
Hát
Bội
không
cần
cảnh
trí
mà
phải
để
trống
vì
Hát
Bội
hát
theo
văn
vần,
lời
nói
bằng
thơ
được
âm
nhạc
hóa,
cách
hành
văn
theo
lối
xưa,
không
thể
dùng
văn
xuôi
hay
văn
kịch
để
viết
tuồng
Hát
Bội.
Ví
dụ
Một
sắc
thiều
quang
tỏ
rạng,
Đôi
nhành
mai
liễu
đua
tươi.
Trời
xuân
cảnh
vật
chào
người,...
Cảnh
vật
nhìn
vẻ
gấm
càng
tươi.
Thiều
quang
vừa
ngoại
sáu
mươi,
Đầy
đường
hoa
nở,
lắm
người
đạp
thanh.
Trời
thanh
rạng
vẻ
xuân
xanh.
Mộ
người
thanh
tảo
phí
tình
cửu
thiên...
Nếu
để
tranh
cảnh
trang
trí
cụ
thể,
thì
khi
người
diễn
viên
hát
diễn
biến
câu
chuyện,
cảnh
trí
đã
được
dựng
lên
sẽ
chỉ
đơn
điệu
một
cảnh
đó,
không
diễn
tả
được
hết
nội
dung
câu
truyện.
Nghệ
sĩ
Ngọc
Bày
chia
sẻ:
“Vì
vậy,
không
bày
trí
một
cảnh
sắc
nào
cụ
thể
thì
khi
người
diễn
viên
xuất
hiện,
cảnh
tượng
sân
khấu
mới
hiện
dần
lên,
địa
điểm
và
thời
gian
mới
được
xác
định.
Với
một
câu
hát,
một
điệu
múa,
người
diễn
viên
dựng
nên
cả
một
trời
tưởng
tượng,
lúc
là
triều
đình,
khi
là
rừng
núi,
lúc
là
vườn
thượng
uyển,
thoắt
đã
thành
bãi
chiến
trường.
Nhiệm
vụ
của
người
nghệ
sĩ
Hát
Bội
còn
kiêm
cả
việc
dựng
cảnh.
Nhưng
để
dựng
được
cảnh
sắc
trong
trí
tưởng
tượng
của
người
xem,
người
nghệ
sĩ
phải
dùng
những
động
tác
tượng
trưng
với
giả
định
có
cảnh
thật
trước
mắt.
Đây
là
những
động
tác
điêu
luyện,
được
cách
điệu
cao
và
giàu
sức
biểu
hiện.
Nhờ
những
động
tác
tượng
trưng
này,
người
nghệ
sĩ
vượt
ra
ngoài
khuôn
khổ
diện
tích
chật
hẹp
của
sân
khấu,
tạo
nên
toàn
bộ
cuộc
sống
trên
sân
khấu.”
Nghệ
sĩ
Ngọc
Bày
cho
biết,
qua
những
tìm
hiểu
của
bà,
thì
trước
khi
Hát
Bội
được
du
nhập
vào
Việt
Nam
từ
Trung
Quốc,
dân
ta
đã
có
một
điệu
hát
riêng
biệt
của
dân
tộc.
Đến
đời
Nguyên
bên
Tàu
(1285),
tướng
Toa
Đô
sang
xâm
chiếm
nước
ta
bị
Hưng
Đạo
Vương
đánh
đuổi.
Khi
quân
Tàu
thua
chạy,
quân
ta
bắt
được
một
số
tàn
quân,
trong
đó
có
tên
Lý
Nguyên
Cát
biết
múa
hát.
Nhà
Trần
hậu
đãi
tên
kép
hát
ấy
để
dạy
cho
người
mình
về
hình
thức
của
điệu
Hát
Bội
như:
cách
múa,
vẽ
mặt,
mặc
xiêm
giáp..
“Còn
về
nội
dung
của
các
giọng
hát
thì
người
mình
đã
có
sẵn
từ
trước.
Những
nghệ
nhân
Việt
Nam
đã
biến
đổi
nó
thành
nét
nghệ
thuật
riêng
của
Việt
Nam.
Âm
nhạc
Hát
Bội
của
ta
khác
với
âm
nhạc
của
Tàu
nhiều
lắm.
Giọng
hát
là
do
âm
nhạc
phát
sinh,
mà
tiền
nhân
ta
đã
biết
dung
hòa
cái
hình
thức
điệu
bộ
của
Tàu
với
nội
dung
âm
điệu
của
mình
sẵn
có
để
tạo
nên
một
lối
hát
đặc
biệt
Việt
Nam.”
Nghệ
thuật
thanh
nhạc
của
Hát
Bội
Theo
nghệ
sĩ
Ngọc
Bày
thì
thanh
nhạc
của
Hát
Bội
gồm
2
phần:
bài
bản
và
không
bài
bản
(làn
điệu).
-Dạng
có
bài
bản:
Có
3
loại,
là
những
bài
nhỏ
-
cho
các
vai
phụ,
vai
hề
gọi
chung
là
“nồi
niêu”;
bài
thường
-
những
bài
bản
trong
tình
huống
bi
thương
sầu
oán;
và
bài
chính
-
gồm
những
bài
dài
hơn,
phân
theo
các
nhóm
tính
chất:
trữ
tình,
hoành
tráng,
những
bài
dành
cho
các
vai
nữ
với
giai
điệu
mềm
mại,
những
bài
có
tính
chất
vui
tươi,
ngân
nga
hoặc
ngâm
vịnh...
-Dạng
theo
làn
điệu:
Là
những
điệu
hát
cơ
bản
và
khá
phổ
biến,
gồm
những
điệu
chưa
có
khúc
thức
hoàn
chỉnh.
Tính
chất
co
giãn
và
tương
đối
tự
do
của
làn
điệu
là
cơ
sở
cho
phong
cách
ngẫu
hứng
của
diễn
viên.
Dạng
theo
làn
điệu
có
hai
loại:
loại
không
theo
nhịp
và
loại
theo
nhịp.
Loại
không
theo
nhịp
thì
có:
1.Nói
Lối:
Kỹ
thuật
rất
đặc
thù
và
phổ
biến
nhất
trong
Hát
Bội.
Các
nghệ
sĩ
rất
chú
trọng
kỹ
thuật
này
vì
làn
điệu
phong
phú,
sâu
sắc
và
tính
tự
do,
phóng
khoáng.
Có
nhiều
kiểu
nói
lối,
lệ
thuộc
vào
hoàn
cảnh,
tâm
trạng
khác
nhau
của
nhân
vật;
Riêng
về
“nói
Lối”,
tuy
gọi
là
nói,
nhưng
nghệ
sĩ
cất
giọng
cao
gần
như
hát.
Có
4
cách
“nói
Lối”:
Lối
Xuân
(nói
chậm
rãi,
nghiêm
nghị,
thường
dùng
khi
xưng
tên
và
đàm
thoại;
Lối
Ai
(nói
lúc
buồn
để
tả
tâm
sự
đớn
đau
thê
lương);
Lối
Xẵng
(lối
nầy
nói
nhanh
hơn
lối
xuân
và
lối
ai,
dùng
trong
lúc
giận
hay
khi
tỏ
lời
khí
khái,
cũng
ngâm
theo
văn
vần).
Ví
dụ:
(Nổi
lôi
đình
chi
nộ.
Phấn
thích
lịch
chi
oai.
Phú
Ôn
Đình
em
khá
tranh
tài,
Trừng
phạt
gã,
để
răn
muôn
chúng)
;
và
Lối
Thường
(dùng
văn
xuôi).
Thí
dụ:
“Công
Chúa
giận
cũng
phải,
nhưng
xin
Công
Chúa
nghĩ
lại.
Nay
tên
Bàng
Hồng
đã
sàm
tấu
cùng
Thánh
thượng
rằng
hạ
quan
là
kẻ
phản
quốc
tư
thù,
nên
lệnh
trên
đã
dạy
giam
từ
mẫu
nơi
ngục
nội...”
2.Xướng,
tức
là
nói
lớn
lên
một
cách
chậm
rãi
cho
mọi
người
đều
nghe.
Một
vai
tuồng
mới
khi
ra
mắt
khán
giả
thường
xướng
4
câu
để
tỏ
tâm
sự
hoặc
hoàn
cảnh
của
mình.
Là
kỹ
thuật
hát
nói
rất
đặc
thù
trong
Hát
Bội,
gồm
nhiều
loại
lệ
thuộc
vào
những
hoàn
cảnh,
tâm
trạng
khác
nhau
của
nhân
vật.
Ở
các
kịch
bản
Hát
Bội,
có
sự
phân
biệt
rất
rõ
giữa
ca
và
xướng.
Nếu
trong
ca,
giai
điệu
được
dùng
để
diễn
tả
tình
cảm
thì
trong
xướng,
ngữ
khí
đóng
một
vai
trò
quan
trọng.
Xướng
thường
cất
cao
giọng,
dựng
hơi
lên.
3.Bạch,
là
bày
tỏ
rõ
ràng
cho
mọi
người
biết.
Bạch
thường
dùng
Hán
văn
7
chữ.
Dùng
cho
những
vai
tướng
võ,
thầy
rùa,
kép
núi...
để
biểu
thị
cái
chí
hướng
hoặc
tài
lực
của
mình.
4.Ngâm,
là
điệu
ngâm
thơ
Đường
luật.
Giọng
Ngâm
nghiêm
nghị
và
tha
thiết
dùng
để
tỏ
tình
luyến
ái
khi
vợ
chồng
hay
tôi
chúa
sắp
xa
nhau.
5.Thán,
gồm
những
làn
điệu
mang
tính
thất
vọng,
oán
thán,
than
thở.
Thường
nhân
vật
tự
thán
4
câu
hoặc
nhiều
câu
bằng
chữ
Hán.
6.Oán,
là
ai
oán,
dùng
khi
khóc
người
quá
cố,
hoặc
khi
oán
trách
vận
mạng.
7.Quân
bẩn,
thường
hát
khi
quân
cầm
cờ
hiệu
đứng
tại
cửa
buồng
hay
đi
ít
vòng
trên
sân
khấu
để
thị
oai
(lúc
kéo
binh
đi
đánh
giặc
hoặc
sắp
về
trào
để
vấn
tội
nghịch
thần).
8.Hát
Bài:
các
mỹ
nữ
thường
hát
Bài
để
chúc
thọ
cho
vua.
9.Tán
(Đường
hát
Nam,
đệm
thêm
một
câu
chữ
Hán);
Hường
(là
những
tiếng
Việt
đệm
ở
giữa
2
câu
hát
hoặc
2
câu
Lối
để
phụ
nghĩa);
Vĩ
(dùng
để
chuyển
từ
câu
Lối
bắt
qua
hát
Nam,
hát
Khách,
hay
muốn
Ngâm,
Thán...);
Láy
(trong
điệu
Hát
Bội,
nghệ
sĩ
thường
phải
thêm
những
tiếng
a,
ư,
ý,
a,
ừ,
hừ
ở
sau
một
câu
hát
để
cho
án
theo
đờn
kèn);
Giáo
đầu
và
Chúc
vãn
(giáo
đầu
hát
lúc
khai
diễn
và
chúc
vãn
hát
lúc
buổi
hát
chấm
dứt);
Vịnh:
Mang
tính
lãng
mạn,
phóng
khoáng;
Sa
mạc:
Thường
gặp
trong
các
cảnh
thể
hiện
cảm
xúc
trữ
tình.
Loại
theo
nhịp
gồm
có:
1.Hát
Khách,
còn
gọi
là
hát
Bắc,
gồm
có:
Hát
Khách
hành
binh
(để
diễn
tả
tâm
trạng
nhân
vật
trước
hoặc
đang
lúc
ra
quân);
Hát
Khách
đối
thoại
(dành
cho
2
người);
Hát
Khách
tự
sự:
nhân
vật
thể
hiện
tâm
trạng
của
chính
mình;
Hát
Khách
tửu:
Nhân
vật
đang
uống
rượu;
Khách
tử:
Nhân
vật
khi
sắp
chết;
Khách
tẩu:
Đang
chạy,
hoặc
dang
lúc
khẩn
trương
ra
trận;
Khách
hồn:
nhân
vật
là
hồn
ma
hiện
về;
Khách
phú:
nhân
vật
là
người
quí
phái,
sang
trọng.
2.
Hát
Nam.
Có
các
loại:
Nam
xuân:
Tâm
trạng
vui
tươi,
sảng
khoái;
Nam
ai:
Tâm
trạng
buồn
bi
lụy;
Nam
xuân
nữ:
Ít
thấy
sử
dụng
trong
các
vở
Tuồng
cổ.
Tâm
trạng
buồn
nhưng
không
không
bằng
Nam
ai;
“Nam
Chạy”
(lúc
bị
truy
nã
cấp
bách
hay
bị
lạc
vào
rừng,
vai
tuồng
vừa
chạy
vừa
hát
nên
gọi
là
Nam
Chạy);
và
“Nam
Biệt”
(chỉ
sự
xa
cách
nhau,
kẻ
đi
người
ở.
Văn
Nam
thường
dùng
câu
song
thất
hay
có
khi
dùng
câu
lục
bát).
Bên
cạnh
những
giọng
hát
chính
đã
kể
trên,
Hát
Bội
còn
có
nhiều
giọng
hát
phụ
khác
dùng
vào
các
trường
hợp
đặc
biệt
như:
Điệu
Thiền
hay
Thoàn
(của
Sư
tăng);
Điệu
Phù
Thủy
(của
Pháp
sư);
Thài
(đào
cầm
quạt,
vừa
múa
vừa
hát);
Giao
Duyên
(lúc
vợ
chồng
hiệp
cẩn
giao
bôi);
giọng
Gian
Nan(của
các
vai
hề)...
Kỹ
năng
của
người
nghệ
sĩ
Hát
Bội
Nghệ
sĩ
Ngọc
Bày
nhận
xét:
“Về
kỹ
thuật
hát,
nghệ
sĩ
Hát
Bội
ngoài
chất
giọng
bẩm
sinh,
cần
phải
học
tập,
rèn
luyện
dài
lâu.
Sân
khấu
Hát
Bội
ngày
trước
thường
hát
ngoài
trời
nên
nghệ
sĩ
cần
có
chất
giọng
vang
to,
ngân
dài
và
khi
tập
cần
phải
sử
dụng
sức
rất
nhiều.
Trong
khi
học
cách
phát
âm,
nhả
chữ,
họ
phải
luôn
tuân
thủ
những
luật
hát
rất
nghiêm
ngặt.
Đây
là
tập
hợp
những
kinh
nghiệm,
thói
quen
về
ngữ
âm,
nhận
thức
thẩm
mỹ
về
thanh
nhạc
trong
nghệ
thuật
Hát
Bội
của
từng
địa
phương”.
Nói
thêm
về
sự
khổ
luyện
của
nghệ
sĩ
Hát
Bội
trong
buổi
đầu
làm
quen
với
nghệ
thuật
này,
nghệ
sĩ
Ngọc
Bày
nói,
các
nghệ
sĩ
Hát
Bội
phải
phát
âm
chính
xác
các
dấu,
rõ
tiếng,
không
bị
biến
âm,
không
nói
ngọng.
Vì
vậy
trước
khi
tập
hát,
các
nghệ
sĩ
thường
tập
nói,
luyện
ngữ
âm,
ngữ
khí
trong
các
kỹ
thuật
nói
lối
như
một
trong
những
phương
thức
nghệ
thuật
tinh
tế
nhằm
biểu
hiện
cảm
xúc
của
nhân
vật.
Có
thể
xem
đây
như
một
trong
những
ngôn
ngữ
mang
đậm
yếu
tố
tượng
trưng
trong
Hát
Bội.
Ngoài
ra,
người
học
Hát
Bội
phải
luôn
tuân
thủ
nguyên
tắc:
trống,
mái
(theo
qui
luật
âm,
dương
trong
Dịch).
(B.H)
Băng
Huyền
Mã
an
toàn:
Sắp tới đây là kỷ niệm 21 năm ngày thành lập trang web cailuongvietnam.com (13/04/2004 - 13/04/2025) Dây là trang tin tức đầu tiên của cailuongvietnam.com từ năm 2004. Còn đuọc gọi là CLVNCOM1 . Thân mời các dộc giả xem những bằi mới hơn tại trang tin tưc CLVNCOM2 theo link dưới dây https://www.cailuongvietnam.com/newscl
Ý kiến bạn đọc