Các nghệ sĩ tài danh của sân khấu cải lương như Ngọc Hương, Kim Giác,
Thanh Thế, Bữu Truyện, Bạch Mai, Thanh Bạch, Thanh Tòng, Ngọc Đáng… và
còn rất nhiều nghệ sĩ nữa đều đã trãi qua một thời thơ ấu sống chung với
đoàn hát, đêm đêm nghe tiếng đờn, giọng hát.
Khi lớn lên một
chút thì các em bé, con của các nghệ sĩ đó thường ngồi bên cánh gà, xem
và nghe cha mẹ mình hoặc các cô, các chú nghệ sĩ ca diễn. Những âm thanh
nghệ thuật, giọng ca tiếng đờn như một chất men say thẩm thầu vào tâm
hồn non trẻ nên khi lớn lên, các em đó hầu hết đều theo nghề ca hát của
cha mẹ, trở thành những nghệ sĩ tài danh. Họ xem nghể ca hát là một
nghiệp Tổ, một truyền thống nghề nghiệp của gia đình phải noi theo.
Nữ
nghệ sĩ Bích Hạnh tên thật là Vũ Thị Hạnh, sanh ngày 03 tháng 12 năm
1953 tại Hải Phòng. Thân phụ của cô là ông Vũ Đình Vịnh, nghệ sĩ đánh
trống trong Ban Tân Nhạc của đoàn hát Kim Chung và mẹ là bà Nguyễn Thị
Mai. Vừa lên một tuổi, Cô Hạnh theo cha mẹ và đoàn hát Kim Chung di cư
vào miền Nam, cư ngụ ngay tại rạp hát Aristo và sau này ở rạp hát
Olympic đường Hồng Thập Tự.
Năm 1964, đoàn hát Kim Chung hát ở
rạp Olympic, đang tập tuồng Bên Cầu Vọng Thê của soạn giả Ngọc Văn.
Tuồng Bên Cầu Vọng Thê cần vai một em bé, đoàn chưa biết tìm đâu, soạn
giả Ngọc Văn biết bé Hạnh là con của ông Vinh, giờ đây ông được giao
nhiệm vụ quản lý của đoàn hát, Ngọc Văn hỏi bé Hạnh có dám ra sân khấu
hát không.
Bé Hạnh lúc đó được 11 tuổi, nhưng vì thường ở trong
cánh gà xem hát nên rất dạng sân khấu. Ngọc Văn bèn tập cho bé Hạnh hát
vai em bé trong tuồng Bên Cầu Vọng Thê của anh. Vai em bé có nói vài câu
đối thoại và ca bài bản nhỏ. Đêm khai trương tuồng hát Bầu Long ngồi
hàng ghế khán giả xem hát, ông thấy khán giả khen em bé dạng dĩ, ca diễn
như con cái nhà nghề. Bầu Long liền bảo soạn giả Ngọc Văn viết cho vai
em bé trong tuồng Bên Cầu Vọng Thê có ca vọng cổ nhưng Ngọc Văn từ chối
không viết vì theo ông, bé Bích Hạnh phát âm còn giọng Bắc, nếu ca vọng
cổ sẽ không hay.
Bích Hạnh nghe nói vậy, cô khóc rất nhiều và xin
cha cô cho cô học ca cổ nhạc một cách đầy đủ như những nghệ sĩ cải
lương cần phải biết. Cha cô đóng tiền cho cô học cổ nhạc với nhạc sĩ Bảy
Trạch, nhạc sĩ đờn kìm chánh của đoàn hát Kim Chung. Nhạc sĩ Bảy Trạch
là thầy dạy ca cổ nhạc cho các danh ca vọng cổ Minh Cảnh, Minh Vương,
Minh Phụng và nhiều nữ nghệ sĩ trong các đoàn hát Kim Chung.
Một
năm sau Bích Hạnh ca thạo các bài bản cổ nhạc và vọng cổ với giọng ca
của người miền Nam nên cô được hát ở đoàn Kim Chung 1 qua các vai trẻ em
trong tuồng Đắc Kỷ Trụ Vương, vai Thái Tử Sĩ Đạt Ta lúc còn trẻ trong
tuồng Phật Thích Ca đắc đạo. Lúc đoàn đoàn hát vừa thu nhận một em bé
trai có giọng ca tốt là Minh Vưng( sau nầy Bầu Long đổi nghệ danh thành
Minh Vương). Trưởng đoàn Kim Chung 1 là nghệ sĩ Quang Hữu sắp xếp chia
vai hát Thái Tử Sĩ Đạt Ta cho Minh Vưng và Bích Hạnh luân phiên nhau
diễn.
Bích Hạnh khóc rất nhiều, thậm chí còn ghét Minh Vưng vì
anh đã giành vai hát của cô, nhưng rồi khi Bích Hạnh lớn dần, Bích Hạnh
hiểu đó là do sự sấp xếp của trưởng đoàn hát, nên Bích Hạnh trở thành
người bạn diễn đắc ý nhất với Minh Vương.
Năm 1968, Bích Hạnh hát
chánh ở đoàn Kim Chung 8, Minh Vương được ông Bầu Long điều về đây hát
chung với Bích Hạnh. Minh Vương và Bích Hạnh có dịp đi xuất ngoại, lưu
diễn ở Lào, Thái Lan và Pháp Quốc.
Năm 1969, nữ nghệ sĩ Bích Hạnh
về hát ở đoàn Kim Chung 2, hát chung với các nghệ sĩ Mỹ Châu, Phương
BÌnh, Quốc Trầm, Phương Dung, Tô Kiều Lan, Ngọc Ẩn, Minh Sang, hề Chơn
Tâm, cô đã hát vai Diệp Thúy Oanh tuồng Tâm Sự Loài Chim Biển , vai Hà
Dung tuồng Kiếm Sĩ Dơi , vai Hạnh tuồng Tình Thiên Thu… Thời gian nầy,
dưới sự dfìu dắt và giúp đở của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu, Bích Hạnh được mời
đi thu dĩa tân cổ giao duyên. Cô Bích Hạnh nổi danh trong làng dĩa nhựa
và được hang dĩa ký một hợp đồng 250.000 đồng trong ba năm.
Năm
1972, Minh Vương và Bích Hạnh lại hát chung với nhau trên sân khấu đoàn
Kim Chung 5, bấy giờ Minh Phụng và Lệ Thủy hát chánh, Minh Vương và Kiều
Tiên hát vai nhì, Bích Hạnh vào vai ba.
Từ khi mới xuất hiện
trên sân khấu năm 1964 trong vai đào nhí, lúc đó Bích Hạnh mới 11 tuổi,
đến năm 1975, 11 năm liền cô Bích Hạnh chỉ hát cho các đoàn hát Kim
Chung 1, Kim Chung 2, Kim Chung 5, Kim Chung 8.
Bích Hạnh đã hát
qua 34 tuồng, đủ các thể loại như tuồng xã hội, tuồng Kiếm Hiệp, tuồng
Tàu, có thể kể như tuồng Bên Cầu Vọng Thê, Phạm Công Cúc Hoa, Phù Kiều
Trường Hận, Mắt Em Là Bể Oan Cừu, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Mạnh Lệ
Quân, Tâm Sự Loài Chim Biển, Tình Thiên Thu, Nữ Hiệp Ăn Mày, Kiếm Sĩ
Dơi, Nhứt Kiếm Bá Vương, Mười Tám Năm Trường Hận, Hắc Sa Thôn Huyết Hận,
Chiêu Quân Cống Hồ, Mùa Thu Trên Bạch Mã Sơn, Phàn Lê Huê, Nắng Thu Về
Ngõ Trúc, Bóng Ma trong cổ miếu, Máu Nhuộn Sân Chùa, Giai Nhân Bên Suối
Bạc…
Sau năm 1975, đoàn Kim Chung cũng như các đoàn hát cải lương
tư nhân khác đều phải giải tán. Các phương tiện thuyền thông, giải trí
như báo chí, nhà in, rạp hát, đoàn hát tân cổ nhạc đều do nhà nước tổ
chức, quản lý và điều hành. Nữ nghệ sĩ Bích Hạnh được bố trí cho hát ở
đoàn Hương Mùa Thu, Cô đã hát qua các tuồng Con Cò Trắng, Gánh Cỏ Sông
Hàn…
Năm 1996 là năm mà sân khấu cải lương xuồng dốc thê thảm,
nhiều đoàn hát lớn ở Saigon phải rã gánh như đoàn cải lương Saigon 1,
đoàn Saigon 2, đoàn Saigon 3, đoàn Hương Mùa Thu, đoàn Phước Chung, đoàn
Thanh Nga, đoàn Minh Tơ, đoàn Huỳnh Long, đoàn kịch nói Kim Cương,…
Từ
năm 1975 đến năm 1996, trong 20 năm, nữ nghệ sĩ Bích Hạnh đã phải đi
hát qua 18 đoàn hát để kiếm sống, gần như sau một năm là thay đổi một
đoàn hát khác. Các đoàn hát mà cô đã hát qua có:
Năm 1976, hát
đoàn Minh Cảnh, tỉnh Sông Bé. Năm 1978, hát ở đoàn Bình Minh – Long
Giang của trưởng đoàn Sáu Nở, rồi qua đoàn Dạ Lý Hương, trưởng đoàn Tư
Trầm. Năm 1980, đi đoàn Lúa Vàng tỉnh Bạch Liêu của Bảy Cao. Năm 1981,
hát ở đoàn Cao Văn Lầu, trưởng đoàn Hề Ốc. Năm 1983, đi đoàn cải lương
Cao Nguyên ở mien Trung của bầu Tâm. Năm 1982, đi đoàn cải lương Sông
Hậu 2 của Hoàng Thái Hùng. Năm 1985 được huy chương bạc Hội diễn sân
khấu cải lương toàn quốc, tuồng Trong Cơn Giông, vai Mẫn. Năm 1986, đi
đoàn hát Kiên Giang. Năm 1987, đi đoàn hát Sông Trà ở Quảng Ngãi. Năm
1988, đi đoàn hát Vũng Tàu 2. Năm 1989, về đoàn cải lương Sông Hậu 2 của
tỉnh Cần Thơ. Năm 1990, đi đoàn cải lương Saigon 2, được huy chương
vàng Hội diễn sân khấu cải lương toàn quốc, vai chánh tuồng Trần Ngữ
Nương Tướng Soái. Năm 1994, đi đoàn cải lương Saigon 1. Năm 1995, đi
đoàn Châu Long, tỉnh An Giang. Năm 1996, đi đoàn Tiếng Chuông Vàng Minh
Phụng.
Nữ nghệ sĩ Bích Hạnh đã hát hơn trăm tuồng cải lương, đa
số là các tuồng cải lương trước năm 1975 được chỉnh lý như Lâm Sanh Xuân
Nương, Máu Nhuộm Sân Chùa, Lưu Bình Dương Lễ, Mái Tóc Người Vợ Trẻ, Tô
Ánh Nguyệt, Lửa Hồng Vạn Kiếp, Người Đẹp Trong Tranh, Đưa Em Về Quê Mẹ,
Bàn Thờ Tổ Của Một Cô Đào, Lục Vân Tiên, Thái Hậu Dương Vân Nga, Bạch
Viên Tôn Các, Bảy Mùa Mai Nở, Võ Đông Sơ Bạch Thu Hà, Núi Liễu Sông
Bằng, Tướng Cướp Bạch Hải Đường, Hoàng Hậu Ba Tư, Khoai Lang Dương Ngọc,
Ngữ Nương Tướng Soái….
Thưa quý thính giả, thông qua các hoạt
động sân khấu của nữ nghệ sĩ Bích Hạnh, chúng tôi thấy Bích Hạnh có
những kinh nghiệm và tài nghệ sáng chói của một nữ diễn viên thinh sắc
lưỡng toàn nhưng cô lâm vào hoàn cảnh khốn khổ trong tình hình sân khấu
hiện tại.
Trước năm 1975, có một huy chương vàng giải Thanh Tâm,
người nghệ sĩ cải lương đã hái ra bạc triệu, có một cuộc sống sung túc,
ấm no cho cả gia đình.
Sau năm 1975, nghệ sĩ có huy chương vàng
quá nhiều, nhưng cuộc sống vật chất của người nghệ sĩ quá khó khăn, ngay
cả việc tìm một đoàn hát để hành nghề lâu dài cũng không được. Nữ nghệ
sĩ Bích Hạnh cũng như hàng trăm, hàng ngàn nghệ sĩ cải lương khác phải
đi kiếm sống bằng cách ca thu băng, thu video, hát ở Đại Nhạc Hội, hát ở
các tụ điểm tấu hài, họ cũng không đủ sống nên phải đi ca hát ở các
quán rượu, quán càphê, quán nghệ sĩ và cả ở các quán ca nhạc bia ôm trá
hình.
Nhiều người làm nghề ca hát đã đau lòng lên tiếng thét kêu
cứu danh dự của nghệ sĩ như Bích Hạnh đã chịu đau khổ để có miếng cơm.
Ai là người có trách nhiệm trong tình trạng suy thoái của nghệ thuật cải
lương và sự khổ đau đói kém của nghệ sĩ ?
SG Nguyễn Phương
ns Bích Hạnh với những bài tcgd để đời1) Nỗi buồn hoa phượng với Minh Cãnh
2)Tình đêm Liên Hoan với ns Chí Tâm
3) Kỷ niệm thời con gái với Minh Vương
4) Một Trăm bến nước với Minh Vương
5) Chuyện tình hà Mặc Tử với Chí Tâm
6) Yêu Lầm với Vương Cảnh
7) Lưu Bút Ngày Xanh với Minh Cảnh
8 ) Ngùời Tình & Quê Hương với Chí Tâm
9) Nương Chiều với Thanh Tuấn
10) Về đâu mái tóc người thương với Tấn Tai
11) Duyên số
12) Bao Giờ Em Quên
13) Tôi Viết Tên Anh
14) Đưa em về với quê hương
15) Lời Thề Trên Đá với Thanh Tuấn
16) Hương Tràm với Minh Vương
17) Mộng Ban Đầu với Minh Vương
18) Nếu chúng Mình cách trở
19) Tựa cánh bèo trôi
20) Phú Tân Quê Hương với Thanh Tuấn
21) Bông Súng Trắng
22) Quen với Điền Tử Lang,tác giả Hà Nam Quang
khangianhandan
Ý kiến bạn đọc